Ngôn Mới là ngôn ngữ chính thức của Đại Dương,
đă được sáng chế để đáp ứng
nhu cầu ư hệ Anh Xă hay Chủ Nghĩa Xă Hội Anh. Năm
1984 chưa có ai dùng Ngôn Mới làm dụng cụ thông tin
độc nhất, dù là trong bài diễn thuyết hay bài văn.
Những bài xă luận trong Thời Báo được
viết bằng Ngôn Mới, nhưng đó là một công
cuộc phi thường chỉ chuyên viên mới thực
hiện nổi. Ngôn Mới được mong sẽ
tận cùng thay thế Ngôn Cũ (hay Anh Ngữ thông
dụng, như đáng nhẽ phải gọi nó) vào
khoảng 2050. Trong khi chờ đợi nó kiên tŕ tiến
bước, các Đảng viên càng ngày càng có khuynh hướng
dùng các từ và lối kết cấu ngữ pháp Ngôn
Mới trong lời nói hàng ngày của họ. Ngôn thể
được dùng năm 1984 và được gồm
trong Từ Điển Ngôn Mới Bản Thứ Chín và
Thứ Mười, là một thể tạm thời,
chứa đựng nhiều từ thừa và dạng
cổ hủ sẽ bị gạt bỏ sau này. Nơi đây
chúng ta bàn về thể hoàn hảo, cuối cùng, gồm
trong bộ Từ Điển Bản Thứ Mười
Một.
Mục đích của
Ngôn Mới không những là cung cấp một phương
tiện biểu lộ nhân sinh quan và tập quán tinh
thần riêng của tín đồ Anh Xă, mà c̣n là khiến
những lối tư tưởng khác không thể có
được. Mục tiêu là khi Ngôn Mới được
dứt khoát chấp nhận và Ngôn Cũ bị quên lăng, tư
tưởng dị giáo -- tức tư tưởng khác nguyên
lư Anh Xă -- sẽ không thể được nghĩ thành
chữ, ít nhất trong chừng mực ư nghĩ lệ
thuộc chữ. Ngữ vựng của Ngôn Mới
được đặt cốt sao diễn tả đích
xác và nhiều khi một cách rất tế nhị mọi
ư tưởng một Đảng viên có thể muốn
tỏ bày đúng, đồng thời khai trừ mọi ư
nghĩa khác cũng như khả năng đạt tới
những ư nghĩa đó nhờ một số phương
sách gián tiếp. Điều ấy được thực
hiện một phần nhờ sự sáng chế ra từ
mới, nhưng đặc biệt nhờ sự loại
trừ những từ không muốn dung nạp, cùng sự
gạt bỏ khỏi những từ c̣n lại các ư nghĩa
không chính thống và bất cứ nghĩa phụ nào, xa
chừng nào đi nữa. Chỉ một thí dụ. Từ tự do sẽ được giữ trong Ngôn Mới nhưng
nó chỉ sẽ được dùng trong những câu như
"Con chó này tự do không có rận", "Cánh đồng
này tự do không có cỏ dại"*. Nó không thể
được dùng theo nghĩa "tự do chính trị"
hay "tự do tinh thần" như cũ v́ sự
tự do chính trị hay tinh thần không c̣n nữa, dù dưới
h́nh thức khái niệm, và bởi vậy tất nhiên không
được nêu tên. Ngoài hẳn sự hủy bỏ
những từ thực dị giáo, sự thu gọn từ
vựng được coi như một cứu cánh, và không
một từ nào có thể miễn được có phép
tồn tại. Ngôn Mới được soạn cốt
không phải để mở rộng, mà để giảm
bớt tầm tư tưởng, và mục đích này
được trợ giúp gián tiếp bởi sự
cắt xén số từ tới mức tối thiểu.
[*ccdg.
Muốn cho thí
dụ nêu lên có ư nghĩa, chúng tôi phải giữ một
cách gượng gạo chữ "tự do" trong hai câu
này ; nguyên văn chữ "free", thường
được dịch là tự do, chỉ sự không vướng
víu, trong hai câu này có nghĩa là "tuyệt nhiên không có".]
Ngôn Mới dựa trên
Anh ngữ như chúng ta hiện biết, mặc dầu
nhiều câu Ngôn Mới, tuy không chứa đựng từ
mới sáng chế, chắc khó hiểu đối với
một người nói tiếng Anh ngày nay. Từ Ngôn
Mới được chia ra làm ba hạng khác biệt,
gọi là từ vựng A, từ vựng B (cũng có tên là
từ kép) và từ vựng C. Giản dị hơn là bàn
riêng về mỗi hạng, song các đặc điểm
ngữ pháp của Ngôn Mới có thể được nêu
cả trong phần dành cho từ vựng A, v́ cả ba
hạng cùng chung quy tắc.
Từ vựng A. Từ vựng A bao gồm những
từ cần thiết cho công việc hàng ngày -- như
ăn uống, làm việc, mặc quần áo, lên xuống
cầu thang, đi xe, làm vườn, thổi nấu, đại
loại. Nó gần như hoàn toàn gồm những từ
sẵn có -- kiểu như đá, chạy, chó, cây,
đường, nhà, ruộng -- nhưng so với
từ vựng Anh ngữ ngày nay số từ ấy rất
ít, trong khi ư nghĩa của chúng được xác định
khắt khe hơn nhiều. Mọi nghĩa nước đôi
và mọi nghĩa cạnh đều bị tiễu trừ.
Trong chừng mực thực hiện như thế nổi,
mỗi từ Ngôn Mới thuộc hạng A chỉ
được là một âm ngắt diễn tả có một khái niệm rơ ràng. Hoàn toàn không thể dùng từ
vựng A với chủ định làm văn chương
hay để bàn căi về chính trị hoặc triết lư.
Nó chỉ cốt diễn tả những tư tưởng
hữu ư đơn giản, thường bao hàm đồ
vật cụ thể hay hành động thể xác.
Ngữ pháp Ngôn Mới
có hai đặc điểm quan trọng. Thứ nhất là
tính gần như hoàn toàn đổi lẫn giữa
những phần câu khác nhau. Bất cứ từ nào trong
ngôn ngữ (trên nguyên tắc điều này áp dụng cho
cả những từ rất trừu tượng như nếu
hay khi) cũng có thể được dùng hoặc
làm động từ, danh từ, tĩnh tự hay phó
từ. Giữa h́nh thể động từ hay danh từ
không có sự khác biệt nào nếu hai từ cùng gốc,
và quy tắc này bao hàm sự hủy bỏ nhiều h́nh
thể cổ xưa. Ví dụ, từ ư nghĩ không
có trong Ngôn Mới. Nó được thay thế bởi ư được dùng làm danh từ lẫn động từ.
Nguyên lư từ nguyên không được áp dụng nơi
đây : có khi danh từ gốc được chọn,
có lúc động từ được giữ. Ngay trong trường
hợp danh từ và động từ có nghĩa tương
tự nhưng không có liên hệ gốc gác với nhau,
một trong hai từ thường bị trừ khử. Thí
dụ không c̣n chữ tựa như cắt, nghĩa
của nó được bao trùm đủ trong động
danh từ dao. Tĩnh từ được cấu
tạo nhờ gắn tiền tố đầy vào
động danh từ, và phụ từ nhờ gắn
tiền tố* cách. Ví như đầy tốc có nghĩa là "nhanh",
và cách tốc có nghĩa
là "một cách nhanh chóng". Một số tĩnh
từ ngày nay như tốt, to, lớn, đen, mềm được giữ lại nhưng tổng số từ
được giữ như vậy rất ít. Chúng không
mấy cần thiết, v́ hầu hết tính ư có thể
thấu đạt nhờ thêm đầy vào động
danh từ. Không có phụ từ hiện có nào được
giữ trừ một số rất ít đă có thêm
sẵn chữ cách : tiền tố cách không
thay đổi. Thí dụ, chữ giỏi được
thay bằng cách tốt.
[*ccdg.
Trong anh ngữ
đầy và cách thật ra được cấu tạo
nhờ tiếp tố -ful và -wise. Dĩ nhiên, v́ cấu trúc
của anh ngữ, gồm từ đa tiết, và việt
ngữ, gồm từ đơn tiết, hoàn toàn khác
biệt, nhiều khi rất khó tôn trọng nguyên văn
nếu muốn chuyển đúng ư của tác giả.]
Lại nữa, bất
cứ từ ǵ -- điều này trên nguyên tắc áp
dụng cho mọi từ thuộc Ngôn Mới -- cũng có
thể bị phủ định nhờ thêm tiền tố
không hay được tăng cường nhờ
gắn tiếp tố hơn, hay tiếp tố bội
hơn nếu muốn nhấn mạnh hơn nữa. Cho
nên tỷ dụ không lạnh có nghĩa là "ấm",
trong khi lạnh hơn và lạnh bội hơn có nghĩa tương ứng là "rất lạnh" và
"hết sức lạnh". Cũng có thể, như
trong Anh ngữ ngày nay, đổi nghĩa của hầu
hết từ nhờ các phụ tố như trước,
sau, trên, dưới, v.v. Với những phương pháp
trên thấy rơ có thể đi đến một sự
giảm bớt lớn lao từ vựng. Thí dụ từ tốt đă có, th́ từ xấu không c̣n cần thiết,
bởi ư nghĩa của nó có thể được
diễn tả đúng chẳng kém -- c̣n hay hơn nữa
-- bởi không tốt. Điều cần thiết là
mỗi khi có hai từ họp thành một cặp đối
lập nhau phải quyết định nên bỏ từ nào.
Ví như tối có thể được thay
bởi không sáng và sáng bằng không
tối tùy sớ thích.
Đặc điểm
đáng kể thứ hai của pháp ngữ Ngôn Mới là
tính đều đặn của nó. Trừ một vài
ngoại lệ được kê ở dưới, mọi
biến tố đều theo cùng quy tắc. Cho nên mọi
thời quá khứ đều được chỉ
bởi tiền tố đă. Như quá khứ
của ư là đă ư, các dạng khác như vốn,
vừa, từng, vv. đều bị loại bỏ.
Mọi số nhiều được biểu hiệu
bởi tiền tố chúng. Như số nhiều
của người là chúng người. Các
dạng khác như các, những, mọi, vv. đều
bị khai trừ. Các tĩnh từ so sánh đều
được ghép với hơn, nhất, những
dạng khác như trội, gấp, vượt, bị loại cả.*
[*
ccdg. Đoạn này liên
quan đến một số quy tắc thích hợp với
riêng Anh ngữ, không thể dịch được,
trừ phi giữ lại một số từ Anh ngữ, nên
chi đă bị thay đổi đôi chút. Dịch theo nguyên
văn sẽ là :... Cho nên mọi động từ
đều có thời quá khứ chưa hoàn thành cùng động
tính từ quá khứ giống nhau và tận cùng bằng -ed.
Thời quá khứ chưa hoàn thành của steal là stealed,
của think là thinked, và cứ như thế
khắp ngôn ngữ, các dạng khác như swam, gave,
brought, spoke, taken vv. đều bị loại bỏ.
Mọi số nhiều được tạo nhờ thêm
chữ -s hay -es tùy trường hợp.
Số nhiều của man, ox, life là mans, oxes, lifes.
Dạng so sánh của tĩnh từ bao giờ cũng
được tạo nhờ thêm -er, -est (good, gooder,
goodest), các dạng bất thường và dạng có thêm more, most bị loại cả.]
Những loại từ
độc nhất c̣n được phép đổi
dạng không đúng qui củ là đại từ, đại
từ quan hệ, tĩnh từ chỉ định, và
trợ động từ. Các loại từ này theo quy
tắc cũ, trừ từ mà bị gạt đi v́
không cần thiết, và những từ sẽ phải,
chắc sẽ bị loại trừ v́ mọi ư tương
lai đă được bao gồm dưới từ sẽ.
Cũng có vài chỗ trái phép trong sự cấu tạo
từ ngữ xuất phát từ sự cần nói cho nhanh
cho dễ. Từ nào khó phát âm hay có thể bị hiểu
nhầm, bị coi tức th́ là từ dở : thành
thử thỉnh thoảng, viện cớ hài âm, có chữ
thừa được lồng vào một từ hay có
một h́nh thái cổ được lưu giữ. Nhưng
nhu cầu ấy thể hiện rơ hơn trong quan hệ
của nó với ngữ vựng B. Tại sao lại
quy cho sự phát âm dễ dàng một tầm quan trọng
lớn như vậy, điều đó sẽ được
giải thích sau trong tiểu luận này.
Từ vựng B. Từ vựng B bao gồm những
từ được định đặt với ư đồ
chính trị, tức không những các từ liên can đến
chính trị mà cả các từ nhằm áp đặt
trạng thái tinh thần mong muốn trên kẻ sử
dụng chúng. Nếu không am hiểu các nguyên lư của Anh
Xă, khó sử dụng đúng những từ này. Đôi
khi những từ này có thể được dịch ra
Ngôn Cũ hay cả ra từ thuộc ngữ vựng A, nhưng
nếu làm vậy thường phải dài ḍng và luôn luôn
bỏ mất vài sắc thái. Từ B là một thứ
lời tốc kư, hay tóm cả loạt ư vào vài âm
tiết, đồng thời lại chính xác và có sức
thuyết phục hơn ngôn ngữ b́nh thường.
Từ B bao giờ cũng
là từ kép*. Nó gồm hai ba từ, hay phần từ,
gắn lại với nhau dưới một h́nh thức
dễ đọc. Kết quả của sự tập
hợp luôn luôn là một động danh từ, biến cách
theo quy tắc thông thường. Chỉ lấy một ví
dụ : từ ư tốt có nghĩa rất đại
khái là "chính thống", hay là "nghĩ một cách
chính thống" nếu muốn coi nó là một động
từ. Biến cách của nó như sau : động
danh từ, ư tốt ; thời quá khứ và động
tính từ quá khứ, đă ư tốt ; động
tính từ hiện tại, đang ư tốt ; tĩnh
từ, đầy ư tốt ; phó từ, cách ư
tốt ; danh từ động, kẻ ư tốt.
[*cctg.
Từ kép như nói
viết dĩ nhiên phải thuộc từ vựng A,
đó chỉ là cách viết tắt giản tiện không có
sắc thái ư hệ đặc biệt.]
Từ B không được
kết cấu trên b́nh diện từ nguyên nào. Những
từ cấu tạo ra nó có thể là bất cứ
phần chữ nào, có thể được đặt
theo bất cứ thứ tự nào, và có thể bị
cắt xén theo mọi cách khiến nó được đọc
dễ dàng cùng biểu thị căn nguyên của nó. Ví như trong
từ tội ư (tội tư tưởng),
chữ ư đi sau, nhưng nó đi trước trong
từ ư đôi ; và chữ cảnh sát mất đi một âm tiết
trong từ cảnh ư (cảnh sát tư tưởng). V́ rất khó duy tŕ hài âm,
thường có nhiều h́nh thái không đúng quy tắc
trong ngữ vựng B hơn trong ngữ vựng A. Tỷ
dụ, dạng tĩnh từ của Bộ Thật,
Bộ B́nh, Bộ Yêu đâm là của Bộ
Thật, của Bộ B́nh, của Bộ Yêu, chỉ v́
đầy Bộ Thật, đầy Bộ B́nh, đầy
Bộ Yêu nghe hơi kỳ. Tuy nhiên, trên nguyên tắc,
mọi từ B có thể biến cách, và đều
biến cách một kiểu.
Có vài từ B có nghĩa
rất tế nhị, thật khó hiểu đối
với ai không thấu toàn diện ngôn ngữ. Hăy lấy
làm thí dụ một câu điển h́nh trích trong một bài
xă luận của Thời Báo như Kẻ ư cũ
không bụng cảm Anh Xă . Được phiên
dịch gọn nhất ra Ngôn Cũ nó sẽ thành :
"Những kẻ ấp ủ tư tưởng thành h́nh
trước Cách Mạng không thể cảm biết nguyên
lư của Xă Hội Chủ Nghĩa Anh." Nhưng phiên
dịch như vậy không đúng hẳn. Thứ nhất,
muốn nắm trọn ư nghĩa của câu văn Ngôn
Mới trích trên, phải có ư niệm rơ ràng về Anh Xă.
Thêm vào, chỉ một người thật thông Anh Xă
mới đánh giá được trọn vẹn mănh
lực của từ bụng cảm, một từ
bao hàm một sự chấp nhận nhiệt thành khó tưởng
tượng được ra ngày nay ; hay hiệu lực
của từ ư cũ, một từ trộn lẫn
rối rắm với ư tưởng ác độc và suy
đồi. Nhưng chức năng đặc biệt
của vài từ Ngôn Mới trong đó có ư cũ không phải là tỏ nghĩa mà là loại nghĩa.
Những từ ấy, tất nhiên không nhiều, có nghĩa
rộng đến nỗi chứa đựng bên trong
cả tràng từ nay, v́ được bao trùm đủ
ư dưới có một từ tổng quát, có thể
bị gạt bỏ và quên lăng. Nỗi khó khăn lớn
nhất mà nhà soạn thảo Từ Điển Ngôn
Mới phải đương đầu với không
phải là sáng tạo thêm từ mới, mà là làm sao
nắm chắc được ư nghĩa của nó sau khi
chế ra nó ; tức là làm sao nắm chắc được
số từ nó xóa bỏ đi bởi sự hiện
hữu của nó.
Như chúng ta đă
thấy trong trường hợp từ tự do,
những từ đă từng có ư nghĩa dị giáo có
khi được giữ lại v́ tính cách tiện
lợi của nó, nhưng sau khi các ư nghĩa bất
khả dung đă bị tẩy trừ. Vô số từ khác
như danh dự, công lư, đạo đức, quốc
tế chủ nghĩa, dân chủ, khoa học, đạo giáo đơn thuần biến mất. Vài từ trùm gồm
những từ ấy lại, và loại những từ
ấy đi nhờ sự thâu tóm đó. Thí dụ, các
từ tập quanh khái niệm tự do công bằng
được khép trong mỗi một từ tội ư,
trong khi các từ tập quanh khái niệm khách quan và duy lư
được chứa trong mỗi từ ư cũ.
Chính
xác hơn sẽ nguy hiểm. Điều đ̣i hỏi nơi
Đảng viên là một quan điểm giống như
lối nh́n của người Do Thái xưa biết
rằng, và không biết ǵ khác hơn, các dân tộc khác
họ thờ "hư thần". Họ không cần
biết những vị thần đó có tên là Baal, Osiris,
Moloch, Ashtaroth hay ǵ khác ; có lẽ họ càng biết ít, càng
tốt cho ḷng chính thống của họ. Họ biết
Jehovah và những giáo điều của Jehovah : cho nên
họ biết các thần có tên khác và thuộc tính khác
đều là "hư thần". Có thể nói là tương
tự như vậy, Đảng viên biết thế nào là
cư xử đúng, và biết một cách hết sức
mơ hồ, tổng quát, có thể trệch bước
tới đâu. Ví dụ, đời sống sinh dục
của họ hoàn toàn khuôn theo hai từ Ngôn Mới tội
dục (sinh dục vô luân)) và dục tốt (trinh
tiết). Tội dục gồm mọi hành vi xấu
xa về sinh dục. Nó bao trùm sự thông dâm, ngoại t́nh,
đồng t́nh luyến ái, cùng các tṛ dâm dục đồi
bại khác, cộng thêm sự giao cấu b́nh thường
nhằm mục đích giao cấu mà thôi. Không cần
kể từng hành vi một, v́ hành vi nào cũng đáng
tội như nhau, và trên nguyên tắc tội nào cũng
khiến tội phạm bị xử tử. Trong ngữ
vựng C gồm các từ khoa học kỹ thuật, có
thể cần nêu danh vài hành vi loạn dâm, nhưng thường
dân không cần đến những từ ấy. Người
dân thường biết thế nào là dục tốt --
tức sự giao cấu b́nh thường giữa vợ
chồng, với mục đích duy nhất là sinh con, người
đàn bà không được cảm thấy thú nhục
dục trong đó : mọi tṛ sinh dục khác thuộc tội
dục. Với Ngôn Mới khó theo đuổi được
một tư tưởng dị giáo quá khái niệm đó
là tư tưởng dị giáo : xa hơn điểm này
không có danh từ cần thiết.
Không một từ nào
trong ngữ vựng B trung tính về mặt tư tưởng
hệ.Nhiều từ là uyển ngữ. Ví dụ, có
từ như trại vui (trại khổ sai) hay Bộ
B́nh (Bộ Ḥa B́nh, tức Bộ Chiến Tranh) có nghĩa
gần như trái hẳn ư biểu lộ. Mặt khác, có
từ bày tỏ một sự am hiểu miệt thị
bản chất xă hội Đại Dương. Một thí
dụ là từ dưỡng dân, chỉ cái tṛ
giải trí đê tiện và những tin tức giả
mạo mà Đảng ban cho quần chúng. Lại có
những từ nước đôi, có nghĩa "tốt"
khi đem áp dụng cho Đảng và nghĩa "xấu"
khi mang gắn cho quân thù của Đảng. Nhưng thêm vào
có rất nhiều từ thoạt coi chỉ là chữ
tắt, có sắc thái ư hệ không phải do nghĩa mà
do lối kết cấu.
Bất cứ ư tưởng
ǵ có tính cách chính trị đều được
cố sức ghép thành từ thuộc ngữ vựng B. Tên
của các tổ chức, đoàn thể, học thuyết,
xứ sở, thể chế, hay công thự luôn luôn bị
cắt xén tới dạng b́nh dị ; tức thành có
một từ dễ đọc với thật ít âm song
vẫn giữ được nguyên nghĩa. Ví như
tại Bộ Sự Thật, Cục Văn Khố, nơi
Winston làm việc, được gọi là Cục
Khố, Cục Soạn Truyện được gọi
là Cục Truyện, Cục Chương Tŕnh Vô
Tuyến Truyền H́nh là Cục Tŕnh H́nh vv. Phép thâu
tắt này không chỉ nhằm mục đích tiết
kiệm th́ giờ. Ngay thời các thập niên đầu
thế kỷ hai mươi, từ và câu lồng vào nhau
đă là đặc điểm của ngôn ngữ chính
trị ; và người ta đă để ư thấy
rằng khuynh hướng dùng tiếng vắn tắt
kiểu đó nổi bật nhất tại các nước
và tổ chức cực quyền. Điển h́nh là
những từ ngữ như Nazi (Quốc Xă), Gestapo (Kiểm Cảnh), Comintern (Cộng Sản Quốc
Tế), Inprecorr (Liên Lạc Viên Tiền Phong Quốc
Tế ?), Agitprop (Khuấy Động Tuyên
Truyền). Thoạt đầu lối ghép chữ này
được chấp nhận làm như một cách
tự nhiên, nhưng trong Ngôn Mới nó được áp
dụng với một mục tiêu có chủ ư. Có sự
nhận thức thấy rằng mỗi khi một từ
bị rút ngắn, đồng thời nghĩa của nó
bị thâu hẹp và biến đổi một cách tinh
tế, v́ mất đi đa số liên tưởng đáng
nhẽ bám vào nó. Tỷ như các từ Cộng
Sản Quốc Tế khêu gợi h́nh ảnh hỗn
hợp của t́nh nhân loại, cờ đỏ, vật
cản đường, Các Mác, Công Xă Ba Lê. Mặt khác,
từ Cộng Tế (Comintern) chỉ gợi ư
một tổ chức chặt chẽ và một bộ
học thuyết xác định. Nó nhắc tới một
thứ gần như cũng dễ nhận và cũng có nghĩa
hạn định như một cái bàn hoặc cái ghế. Cộng
Tế là một từ có thể được
thốt ra không cần suy nghĩ, trong khi Cộng Sản
Quốc Tế là một thành ngữ bắt người
ta lần lữa ít nhất đôi chút. Cũng vậy,
những liên tưởng được khích động
bởi một từ như Bộ Thật ít hơn
và dễ kiểm soát hơn những liên tưởng đi
đôi với Bộ Sự Thật. Sự kiện này
bảo đảm không những cho thói vắn tắt
mỗi khi có dịp, mà cả cho tật chăm sóc hầu
như quá đáng sự dễ phát âm của mỗi
từ. Trong Ngôn Mới, ngoài câu thúc đúng nghĩa,
luật hài âm thắng mọi quan điểm khác. Qui
tắc văn phạm luôn luôn bị hy sinh cho nó nếu
cần. Và thế là phải, bởi nhu cầu, trước
hết v́ mục tiêu chính trị, là những từ
vắn tắt, có ư nghĩa rơ ràng, có thể được
phát âm nhanh, lại gợi tối thiểu tiếng vang
trong óc kẻ thốt ra chúng. Các từ thuộc ngữ
vựng B c̣n thêm hiệu lực nhờ sự hầu
hết chúng tương tự nhau. Gần như luôn luôn
những từ ấy -- ư tốt, Bộ B́nh, dưỡng
dân, tội dục, trại vui, Anh Xă, bụng cảm,
cảnh ư và vô số từ khác -- gồm hai hoặc
ba âm, với sự nhấn mạnh chia đều giữa
âm đầu và âm cuối. Sự sử dụng những
từ này khuyến khích lối diễn văn hiếu
thắng, tẻ ngắt, ngay đầu đă giật
giọng. Và đấy đúng là đích nhắm. Dụng
ư là khiến lời văn, nhất là văn bàn về
một vấn đề hơi không trung tính trên phương
diện ư hệ, hết sức tách rời khỏi tâm
thức. Dĩ nhiên, trong đời sống hàng ngày
bắt buộc hay thỉnh thoảng bắt buộc
phải suy nghĩ trước khi nói, nhưng một Đảng
viên được yêu cầu phán đoán về luân lư
hay chính trị phải có khả năng tuôn ra quan điểm
đúng đắn một cách tự động chẳng kém
ǵ súng liên thanh xả đạn. Sự rèn luyện
khiến họ thích ứng với việc làm này, ngôn
ngữ cấp cho họ một dụng cụ gần như
vượt mọi thử thách, và sự kết cấu
của các từ, với âm thanh chát chói và cái bề thô
sơ cố ư thích hợp với tinh thần Anh Xă, giúp
cho quá tŕnh diễn tiến xa hơn.
Đấy là hậu
quả của sự có rất ít từ để chọn
lựa. So với ngôn ngữ của chúng ta, ngữ
vựng Ngôn Mới eo hẹp, và luôn luôn có sự t́m
kiếm phương cách mới nhằm thu gọn nó
lại. Quả vậy, Ngôn Mới khác các ngôn ngữ khác
ở cái mỗi năm từ vựng của nó bị thu
hẹp lại thay v́ được nới rộng ra.
Mỗi sự giảm sút là một vụ lợi, v́
tầm chọn lựa càng hẹp, ḷng rắp rem suy nghĩ
càng ṃn. Chót cùng là hy vọng khiến cho sự cấu âm
phát sinh từ cổ họng, không cần dính líu đến
các khu thần kinh cao cả. Mục tiêu này được
thành thực thừa nhận trong từ Ngôn Mới nói
vịt có nghĩa là "nói quặc quặc như
vịt". Như nhiều từ khác trong ngữ vựng
B, nói vịt có tính đôi chiều về ư nghĩa.
Miễn quan điểm được quặc ra là quan
điểm chính thống, từ đó không bao hàm ǵ hơn
ư khen ngợi, và khi Thời Báo nhắc tới
một diễn giả thuộc Đảng như một kẻ
nói vịt tốt bội hơn, đó là báo có ư ban
một lời khen đáng giá, nồng nhiệt.
Từ vựng C. Từ vựng C bổ sung hai từ
vựng trên và toàn gồm các từ khoa học kỹ
thuật. Loại từ này giống như các từ khoa
học hiện dụng, và được cấu tạo trên
căn bản tương tự, song như thường
lệ việc định nghĩa khắt khe và việc
loại trừ những ư nghĩa bất hảo rất
được chăm sóc. Chúng theo cùng qui tắc với các
từ thuộc hai từ vựng kia. Rất ít từ C
được thông dụng trong văn hàng ngày hay văn
chính trị. Nhân viên khoa học kỹ thuật nào cũng
có thể tra các từ cần đến trong bảng
mục lục dành riêng cho ngành của ḿnh, nhưng
hiếm khi được biết hơn chút khái niệm
về những từ ghi trong các bảng khác. Chỉ có
rất ít từ chung cho toàn thể các mục lục, và
không có ngữ vựng biểu lộ năng chức
của khoa học như một tập quán tinh thần, hay
một phương pháp suy tưởng, không lệ
thuộc riêng ngành nào. Vả lại, không có từ
chỉ "Khoa học", mọi nghĩa có thể
được nó đội đă do từ Anh Xă bao
trùm đủ rồi.
Chiếu theo trên, ta thấy rằng trong Ngôn Mới, sự
phát biểu quan điểm bất chính thống, quá
một mức rất thấp, gần như không thể có
được. Dĩ nhiên, có thể thốt ra một
loại tà ngôn thật tục, một loại lời báng
bổ. Ví như có thể bảo rằng Bác không
tốt. Nhưng câu này, vào tai kẻ chính thống
chỉ đượm tính phi lư hiển nhiên, không thể
được dựa trên luận cứ nào, v́ không
sẵn có từ cần thiết. Những ư tưởng
nghịch với Anh Xă chỉ có thể được nuôi
dưỡng dưới một h́nh thức mơ hồ không
tên, và chỉ có thể dược nêu lên bằng
những từ rất tổng quát kết khối với
nhau nên nhờ đó không cần định nghĩa mà bít
bí được hàng nhóm tà thuyết. Thực ra, chỉ
có thể dùng Ngôn Mới nhằm mục tiêu bất chính
thống bằng cách dịch lại một cách bất
hợp pháp vài từ sang Ngôn Cũ. Ví dụ, Mọi người
đều bằng nhau có thể là một câu Ngôn
Mới, nhưng chỉ tựa như Mọi người
đều tóc hung có thể là một câu Ngôn Cũ. Nó
không sai văn phạm, nhưng diễn tả một
sự sai ngoa dễ thấy -- làm như nó cho rằng
mọi người ai cũng bằng bề nhau, bằng cân
nhau, bằng sức nhau. Khái niệm b́nh đẳng chính
trị không c̣n nữa, cho nên nghĩa phụ này đă
bị khử trừ khỏi từ bằng nhau. Năm
1984, khi Ngôn Cũ c̣n là phương tiện truyền thông
b́nh thường, trên lư thuyết có mối nguy kẻ dùng
từ Ngôn Mới có thể nhớ lại nguyên nghĩa
của chúng. Trên thực tế, bất cứ ai vững ư
đôi cũng tránh được chuyện đó,
vả lại sau hai thế hệ ngay cái khả năng
nhầm lẫn kia cũng sẽ biến mất. Một người
sinh trưởng với Ngôn Mới làm ngôn ngữ độc
nhất sẽ không c̣n biết rằng bằng nhau có
thời có nghĩa phụ là "bằng nhau về mặt
chính trị", hay biết rằng tự do có
thời nghĩa là "tự do về mặt tinh thần",
chẳng khác ǵ một người chưa từng nghe nói
tới cờ sẽ không hiểu được nghĩa
phụ của tướng và xe. Sẽ có
nhiều trọng tội và điều sai lầm vượt
khả năng phạm phải của họ, chỉ v́ chúng
không có tên và bởi vậy không thể tưởng tượng
ra được. Và phải dự kiến rằng với
thời gian các đặc tính của Ngôn Mới sẽ càng
ngày càng hiển hiện -- số từ ít dần, nghĩa
của các từ thêm ngặt, khả năng dùng từ
một cách không thích đáng maĩ măi suy giảm.
Một khi Ngôn Cũ
bị thay thế hẳn, mối liên lạc cuối cùng
với quá khứ sẽ bị cắt đứt. Lịch
sử đă bị viết lại, nhưng nhiều
mẩu văn chương thuộc quá khứ c̣n tồn
tại đâu đó, không bị kiểm duyệt hết,
và c̣n có người giữ được một chút
hiểu biết về Ngôn Cũ, những mẩu đó c̣n
có thể được đọc. Nay mai, dù những
mẩu đó có cơ tồn tại, không ai hiểu
nổi hay dịch nổi chúng. Không thể dịch
được một đoạn Ngôn Cũ sang Ngôn
Mới trừ phi nó liên quan đến một quá tŕnh
kỹ thuật hay một hành động hàng ngày thật
đơn giản, hoặc nó đă sẵn có khuynh hướng
chính thống (từ Ngôn Mới sẽ là đầy ư
tốt). Trên thực tế như vậy là không có sách
nào viết trước khoảng 1960 có thể được
dịch trọn vẹn. Văn chương trước Cách
mạng chỉ có thể được chuyển dịch
theo ư hệ -- tức bị biến nghĩa và biến
lời. Hăy lấy làm ví dụ đoạn văn danh
tiếng trích từ Bản Tuyên Ngôn Độc Lập :
Chúng tôi coi những
sự thực sau đây là điều hiển nhiên :
Rằng con người sinh ra ai cũng bằng ai, ai cũng
được Thượng Đế ban cho một số
quyền lợi bất khả di nhượng, rằng trong
đó có quyền sinh sống, quyền tự do, và
quyền theo đuổi hạnh phúc. Rằng để duy
tŕ những quyền lợi ấy, các Chính Quyền đă
được đặt trong nhân loại, rút quyền
lực từ sự ưng thuận của những kẻ
bị cai trị. Rằng mỗi khi một Chính Thể
đi đến chỗ phá hủy mục đích trên,
quyền của Dân Chúng là thay đổi hay loại
bỏ Chính Thế đó để thiết lập một
Chính Quyền mới...
Hoàn toàn không thể
chuyển đoạn văn này sang Ngôn Mới mà vẫn
giữ được ư nghĩa của nguyên bản. Phiên
dịch sát ư nhất sẽ là gom cả đoạn trong có
một từ tội ư. Một bản dịch đầy
đủ chỉ có thể là một bản dịch
trọng ư hệ, theo đó từ ngữ của Jefferson
biến thành một bản văn tâng bốc chính thể
chuyên chế.