Winston keo người v́ mệt. Dùng chữ keo là đúng.
Từ đó nảy tự nhiên trong óc anh. Thân h́nh anh
tuồng như không những nhũn như keo mà c̣n trong
suốt giống keo nũa. Anh có cảm tưởng
nếu anh giơ tay lên cao anh sẽ nh́n được ánh
sáng xuyên qua nó. Hồng và bạch huyết của anh đă
rút hết khỏi người anh v́ sự làm việc quá
lạm, chỉ chừa lại một cấu trúc mảnh
dẻ gồm thần kinh, xương và da. Các cảm giác
của anh h́nh như bị phóng đại. Bộ áo
liền quần của anh cưa vai anh, mặt đựng
lát cào chân anh, ngay cả sự khép hay mở tay ra cũng
là một sự cố gắng làm các khớp xương
tay kêu rắc.
Anh đă làm việc hơn
chín mươi tiếng trong năm ngày. Ai ở trong Bộ
cũng làm việc như vậy. Nay việc đă xong và
anh hoàn toàn không có ǵ để làm, không có việc Đảng
nào trước sáng mai. Anh có thể đến ở sáu
tiếng nơi chỗ trú ẩn và về nhà nằm giường
chín tiếng. Dưới nắng chiều dịu, anh bước
chân chậm chạp trên một con phố tồi tàn
về phía cửa tiệm ông Charrington, một mắt canh
chừng các đội tuần tra, tuy tin một cách phi lư
trong ḷng rằng chiều nay không có nguy có kẻ phiền
nhiễu anh. Chiếc cặp nặng mà anh đang xách
dập vào đầu gối anh mỗi khi anh bước,
truyền từ trên xuống dưới da cẳng anh
một cảm giác ngứa ngáy. Trong cặp là Quyển
sách anh giữ từ sáu ngày nay nhưng chưa mở
ra, chưa cả nh́n nữa.
Vào ngày thứ sáu
của Tuần Lễ Hận Thù, sau các đám rước,
các bài diễn văn, sau các tṛ hô hào, hát sướng,
biểu ngữ, bích chương, phim ảnh, h́nh sáp, lăn
trống, tru kèn, dậm chân th́nh thịch, sau xích xe tăng
kèn kẹt, đoàn máy bay ồ ồ, súng pháo ầm ĩ
-- sau sáu ngày như vậy, khi đại nhục khoái
bập bùng tới điểm cực lạc và nỗi oán
hận chung đối với Âu Á sôi điên cuồng
đến độ nếu đám đông tóm được
cả hai ngàn tên tội phạm chiến tranh Âu Á sẽ
bị xử treo trước công chúng vào ngày cuối quá
tŕnh, thế nào họ cũng sẽ xé tan xác chúng -- đúng
lúc ấy có tin sau rót Đại Dương không đánh
nhau với Âu Á. Đại Dương đánh nhau với
Đông Á. Âu Á là đồng minh.
Dĩ nhiên, không có
lời công nhận nào về một sự thay đổi
đă xảy ra. Chỉ thấy, bỗng th́nh ĺnh lập
tức khắp nơi, có tin Đông Á chứ không phải
là Âu Á là kẻ thù. Winston đang tham gia một cuộc
biểu t́nh tại một quảng trường ở trung
tâm Luân Đôn khi sự kiện diễn biến. Lúc đó
vào đêm, các khuôn mặt trắng và cờ xí đỏ
sáng nhợt dưới đèn. Quảng trường đông
nghẹt hàng ngàn người, kể cả một khu
gồm khoảng một ngh́n học sinh trong y phục
của Đoàn Gián Điệp. Trên một bục phủ
vải đỏ, một diễn giả thuộc Đảng
Trong, một người đàn ông nhỏ gầy có tay dài
quá khổ và một cái đầu to trên đó lún phún vài
mớ tóc rễ tre, đang hô hào dân chúng. Như một
người nộm nhỏ bé queo lại v́ căm hờn,
hắn đưa một tay nắm chặt cổ máy ghi âm,
trong khi tay kia, kếch xù cuối một cánh tay xương
xảu, cào hăm dọa không khí trên đầu hắn.
Giọng hắn đanh kim qua máy phóng thanh, gầm ra
một bảng kê khai bất tận kể lể những
sự ác nghiệt, giết chóc, giam đày, cướp bóc,
hiếp hăm, tra tấn tù binh, oanh tạc thường dân,
tuyên truyền dối trá, tấn công vô cớ, vi phạm
thỏa ước. Nghe hắn nói hầu như không
thể không bị thuyết phục và điên tiết lên.
Cứ chốc chốC sự cuồng nhiệt của đám
đông lại sôi lên sùng sục và tiếng của
diễn giả bị ch́m dưới tiếng thú dại
gầm hét không kềm nổi bật ra từ hàng ngàn
cuống họng. Những tiếng hét man dại nhất
thoát ra từ đám học sinh. Bài diễn văn kéo dài
được chừng hai mươi phút th́ có một người
đưa tin chạy đến bục nhét một mẩu
giấy vào tay diễn giả. Hắn mở giấy ra
đọc nhưng không ngưng diễn thuyết. Không có
ǵ thay đổi trong giọng nói hay điệu bộ
hắn cũng như trong nội dung câu văn hắn, nhưng
đột nhiên danh tính khác hẳn. Không có lời
giải thích nhưng sự hiểu biết lan trong đám
đông. Đại Dương đánh nhau với Đông
Á ! Phút chốc có một cuộc chấn động
lớn. Các cờ xí và bích chương trang hoàng quảng
trường đều sai cả ! Gần nửa
vẽ mặt sai. Có sự phá hoại ! Cán bộ
của Goldstein ra tay đó ! Thể là có một gian khúc
náo động để giật bích chương khỏi
tường, để xé và giẫm nát cờ xí. Đoàn
Gián Điệp trổ tài lạ trong việc chèo lên mái
nhà cắt cờ đuôi nheo phất phơ trên ống khói.
Nhưng nội hai ba phút cuộc náo động chấm
dứt. Một tay nắm chặt cổ máy ghi âm, vai
ấn ḿnh về phía trước, tay rảnh cào không khí,
diễn giả từ nẫy vẫn tiếp tục
diễn thuyết. Phút sau, những tiếng gầm giận
dữ hung bạo lại bật lên từ đám đông.
Cơn Hận Thù tiếp tục y như trước
ngoại trừ sự thay đổi đối tượng.
Điều làm Winston xúc
động khi nghĩ lại là việc diễn giả
nhảy từ đường lối này sang đường
lối khác giữa câu, mà không ngập ngừng, không
cả phạm cú pháp. Nhưng lúc đó anh có nhiều
chuyện bận ḷng hơn. Đương lúc lộn
xộn khi bích chương bị xé giật, có một người
đàn ông anh không rơ mặt đập tay vào vai anh và nói :
"Xin lỗi, dường như ông đă đánh rơi
chiếc cặp này." Không nói ǵ, anh lơ đăng
cầm lấy cặp. Anh biết phải lâu ngày nữa
anh mới có cơ hội nh́n vào trong đó. Khi cuộc
biểu t́nh chấm dứt anh trở về Bộ Sự
Thật mặc dầu lúc ấy đă gần hai mươi
ba giờ. Toàn thể nhân viên trong Bộ đều làm
vậy. Lệnh đă ra trên máy truyền h́nh gọi
họ về nơi làm việc gần như không cần
thiết.
Đại Dương
đánh nhau với Đông Á : Đại Dương
vẫn đánh nhau với Đông Á. Một phần
lớn văn thư chính trị từ năm năm nay bây
giờ đâm thành hoàn toàn hủ lậu. Các bản tường
tŕnh và tài liệu các loại, báo chí, sách vở, văn
đả kích, phim, băng đĩa, h́nh ảnh, mọi
thứ phải được cấp tốc sửa
lại. Tuy không có chỉ thị, ai cũng biết
rằng các trưởng Cục muốn nội một
tuần không một chứng cứ nào về chiến tranh
với Âu Á hay hiệp ước với Đông Á
được tồn tại bất cứ đâu. Công
việc nặng nhọc, nhất là v́ thêm vào đó không
được gọi đúng tên quá tŕnh phải thực
hiện. Ai ở trong Cục Văn Khố cũng làm
việc mười tám trên hai mươi tư tiếng
với hai đoạn giấc ba tiếng. Nệm được
khiêng lên từ hầm trải khắp hành lang : cơm
nước gồm bánh ḿ kẹp nhân và cà phê Chiến
Thắng do nhân viên quán ăn đẩy xe mang tới.
Mỗi lần ngưng tay v́ tới phiên anh đi ngủ,
Winston cố thu xếp cho không c̣n việc trên bàn, nhưng
khi anh ḅ về bàn với mắt c̣n dính và người
nhức mỏi, đă thấy một xấp cuốn
giấy phủ bàn anh như một đống tuyết, vùi
nửa chừng máy ghi âm và tràn xuống sàn, thành thử
công việc đầu tiên của anh bao giờ cũng là
sắp giấy lại thành chồng ngăn nắp để
có chỗ làm việc. Điều ngán nhất là công
việc không đơn thuần máy móc chút nào. Có khi
chỉ cần thay tên này vào tên khác, nhưng bản tường
tŕnh nào cũng đ̣i hỏi sự cẩn thận và trí
tưởng tượng. Ngay tầm hiểu biết về
địa dư để chuyển chiến tranh từ
địa phương này sang địa phận khác cũng
cần phải lớn lao.
Ngày thứ ba mắt anh
đau không thể chịu được và cứ vài phút
anh lại phải lau kính. Cơ hồ anh đang
đương đầu với một công việc
thể chất nặng nề, một việc anh có
quyền từ chối, song le anh cứ bồn chồn lo
lắng hoàn tất nó. Theo như bấy nhiêu anh nhớ,
anh không bị xúc động bởi sự mỗi chữ
anh th́ thầm trong máy ghi âm, mỗi dấu bút mực
của anh là một điều quyết ư giả dối.
Như mọi người khác trong Cục anh chỉ lo cho
sự giả mạo được hoàn hảo. Vào sáng ngày
thứ sáu mức tuôn cuộn giấy giảm xuống.
Trong đến một nửa tiếng không có ǵ tuột
ra khỏi ống ; rồi thêm một cuộn, rồi không
thấy ǵ. Khắp nơi khoảng cùng một lúc công
việc nhẹ đi. Một hơi thở dài tuy thầm kín
lan khắp Cục. Một công chuyện khổng lồ không
bao giờ được nhắc tới đă kết thúc.
Bây giờ không một ai có thể dẫn chứng
bằng tài liệu sự chiến tranh với Âu Á đă
từng xảy ra. Tới mười hai trăm có thông cáo
bất ngờ cho phép mọi nhân viên trong Bộ được
nghỉ tới sáng hôm sau. Winston về nhà, xách theo
chiếc cặp được anh kẹp giữ dưới
chân khi làm việc và đặt dưới người
khi đi ngủ, cạo râu, rồi suưt ngủ gật trong
khi tắm mặc dầu nước chẳng ấm ǵ.
Khớp xương anh
bẻ rắc một cách thú vị khi anh leo cầu thang lên
gác cửa tiệm ông Charrington. Anh mệt mỏi nhưng
không c̣n buồn ngủ nữa. Anh mở cửa sổ ra,
châm cái bếp dầu nhỏ bẩn, và đặt một
xoong nước để làm cà phê lên. Julia sắp
sửa tới. Trong khi chờ đợi có Quyển sách.
Anh ngồi xuống cái ghế bành cũ rích và tháo đai
cặp ra.
Một quyển sách dày
đen, do một người không chuyên nghề đóng, không
có tên tác giả hay nhan đề ngoài b́a. Chữ in cũng
có vẻ không đều mấy. Trang bị nhàu ở mép
và dễ rách rời làm như cuốn sách đă qua
nhiều tay. Câu đề ghi trên trang đầu như sau :
Winston bắt đầu đọc :
Suốt lịch sử, và có lẽ từ thời đại
Tân thạch khí, có ba loại dân trên thế giới,
loại Thượng, loại Trung và loại Hạ.
Những loại đó phân ra nhiều chi có không biết
bao tên khác nhau, và thành phần của mỗi loại cũng
như thái độ của mỗi loại đối
với nhau, thay đổi từ thời này sang thời kia :
nhưng cơ cấu cốt yếu của xă hội không
bao giờ biến chất. Ngay cả sau các vụ đột
khởi và các biến đổi bất khả truất băi,
cấu trúc cũ luôn luôn tự tái lập, hệt như
máy quay hồi chuyển luôn luôn quay về thế thăng
bằng, dù bị đẩy xa đến đâu về phía
này hay phía kia.
Mục đích của các
nhóm đó hoàn toàn không dung ḥa được với nhau...
Winston ngưng đọc, đặc biệt để thưởng
thức sự anh đang đọc trong cảnh tiện
nghi an toàn. Anh có một ḿnh : không có máy truyền h́nh,
không có tai áp sau lỗ khóa, không có xung động
thần kinh làm anh liếc nh́n sau vai hay lấy tay che trang
giấy. Khí hạ dịu mơn trớn má anh. Từ đâu
đó đằng xa khẽ vọng lại tiếng la
của trẻ nhỏ : ngay trong pḥng không có tiếng
động nào ngoài tiếng sâu bọ của đồng
hồ. Anh lùn ngựi sâu hơn vào chiếc ghế bành và
đặt chân trên tấm chắn ḷ sưởi. Đây là
đại hạnh, đây là đời đời.
Bỗng nhiên, như ngựi ta thường làm với
một cuốn sách ḿnh biết cuối cùng ḿnh sẽ
đọc đi đọc lại từng chữ, anh
giở sách sang trang khác vào đúng chương III. Anh
tiếp tục đọc :
Sự phân chia thế giới ra làm ba siêu quốc là
một sự kiện có thể và đă được tiên
đoán trước giữa thế kỷ hai mươi.
Với sự sát nhập Âu Châu vào Nga và Đế
quốc Anh vào Hoa Kỳ, hai trong ba cường quốc
hiện hữu, Âu Á và Đại Dương, đă
thực sự thai nghén. Cường quốc thứ ba,
Đông Á, chỉ xuất hiện như một nước
thống nhất sau thêm mười năm rối ren. Ranh
giới giữa ba siêu quốc được định
một cách độc đoán tại vài nơi, di động
theo vận mệnh chiến tranh tại nơi khác, nhưng
nói chung nó tùy theo tuyến đường địa dư.
Âu Á gồm toàn thể bắc phần Âu Châu và đại
thổ Á Châu, từ Bồ Đào Nha đến eo biển
Behring. Đại Dương gồm Mỹ Châu, các đảo
Đại Tây Dương kể cả quần đảo
Anh, Úc Châu và phần nam Phi Châu. Đông Á nhỏ hơn
hai nước kia và có ranh giới mé tây kém phần đích
xác, bao gồm Trung Hoa và các xứ phía nam, quần đảo
Nhật Bản, và một phần đất lớn tuy hay
di dịch của Măn Châu, Mông Cổ và Tây Tạng.
Kết hợp thế này
hay thế khác, ba siêu quốc luôn luôn đánh nhau và
cứ thế từ hai mươi nhăm năm nay. Song le,
chiến tranh không c̣n là cuộc chiến tuyệt vọng
ṃn mỏi như nó từng như vậy trong mấy
chục năm đầu thế kỷ hai mươi. Đây
là một cuộc chiến có mục tiêu hạn định
giữa những địch thủ không thể tiêu
diệt được nhau, không có lư do cụ thể
để đánh nhau, không bị chia rẽ bởi một
sự khác biệt chủ nghĩa xác thực nào. Thế
không có nghĩa là sự điều khiển chiến tranh
hay thái độ ưu thắng đối với nó kém tàn
bạo hay hào hiệp hơn. Ngược lại, chứng
cuồng chiến tiếp diễn và thịnh hành khắp nơi,
và những hành động như hăm hiếp, cướp
bóc, giết trẻ con, biến toàn cư dân thành nô
lệ, trả thù tù binh tới mức đun sôi, chôn
sống họ, được coi như b́nh thường và
đáng khen thưởng nếu do quân phe ḿnh thay v́ phe
địch phạm phải. Nhưng trên thực tế,
chiến tranh liên hệ tới rất ít người,
phần đông là chuyên viên được huấn
luyện kỹ càng, và tương đối gây ít
thiệt hại. Trận đánh, nếu có, xảy ra
tại một vùng biên giới mù mịt mà thường dân
chỉ đoán được ra nơi chốn, hay quanh các
Pháo Đài Nổi canh giữ những điểm chiến
lược trên đường biển. Tại các trung tâm
khai hóa, chiến tranh không có nghĩa ǵ ngoài một sự
khan hiếm hàng hóa liên tục, và sự đôi khi bom
lửa làm vài chục người chết. Chiến tranh
thực ra đă đổi chất. Đúng hơn,
những lư do gây ra chiến tranh đă đổi thứ
tự quan trọng. Những duyên cớ từng có mặt
ở một mức độ nhỏ trong các cuộc đại
chiến hồi đầu thế kỷ hai mươi, nay
trội hẳn, được công nhận và được
tính đến trong hành động.
Muốn hiểu bản
chất của chiến tranh hiện tại -- v́ mặc
dầu sự thay đổi liên minh xảy ra cứ vài năm
một, nó lúc nào cũng vậy -- phải ư thức
rằng nó không thể có tính cách quyết định. Không
một trong ba siêu quốc nào có thể bị xâm chiếm
hẳn dù bởi cả hai nước kia hợp nhau
lại. Ba nước quá ngang nhau và các phương
tiện pḥng thủ thiên nhiên của cả ba quá lớn
lao. Âu Á được che chở bởi khoảng đất
rộng răi của nó, Đại Dương bởi sự
bao la của Đại Tây Dương và Thái B́nh Dương,
Đông Á bởi khả năng sinh sản và sự
cần mẫn của dân bản xứ. Sau đó, cụ
thể ra, không c̣n ǵ đáng được tranh đấu
cho nữa. Với sự thành lập kinh tế tự túc
trong đó sản xuất và tiêu thụ được
gắn liền nhau, sự tranh giành thị trường là
lư do chính của các cuộc chiến trước kia nay không
c̣n nữa, đồng thời sự tranh đoạt nguyên
liệu hết là một vấn đề sống chết.
Vả lại, siêu quốc nào cũng đủ lớn
để có thể thu được hầu hết
vật liệu cần thiết trong ranh giới ḿnh.
Nếu bảo rằng chiến tranh phải có một
mục tiêu kinh tế trực tiếp, th́ đây là
một cuộc chiến giành nhân công. Giữa ranh giới
của ba siêu quốc, không thuộc lâu bất cứ siêu
quốc nào, có một khu đại khái h́nh bốn
cạnh với góc đặt trên Tanger, Brazzaville, Darwin và
Hồng Kông, gồm một phần năm dân số
thế giới. Chính v́ quyền sở hữu trên các vùng
đông dân cư đó và trên vùng mũi đá bắc
cực mà ba siêu quốc luôn luôn đánh nhau. Trên thực
tế không một cường quốc nào kiểm soát
được toàn thể vùng tranh giành. Nhiều phần
vùng đó luôn luôn đổi chủ, và chính thói thừa
cơ lừa đánh để chiếm mảnh đất
này hay mảnh đất kia xui nên sự thay đổi vô
tận đồng minh.
Các đất đai
tranh giành chứa đựng nhiều khoáng vật quư giá,
một vài vùng sản xuất nhiều thực vật quan
trọng, ví như cao xu, một chất mà các xứ có khí
hậu lạnh phải hóa hợp bằng phương pháp
so ra tốn kém hơn. Nhưng trên hết, các vùng đó có
một trữ lượng nhân công rẻ tiền. Cường
quốc nào kiểm soát được vùng xích đạo
Phi Châu hay các xứ Trung Đông hoặc Nam Ấn Dộ,
hay bán đảo Nam Dương, đương nhiên
được sử dụng hàng chục hay trăm
triệu cu li ăn ít lương mà làm việc nặng
nhiều. Dân cư các vùng ấy bị dồn công khai ít
nhiều vào cảnh nô lệ, không ngớt qua tay hết
kẻ chinh phục này đến kẻ chinh phục kia, và
bị đẩy như thể than dầu vào cuộc tranh
đua sản xuất nhiều binh khí hơn, chiếm đóng
nhiều đất đai hơn, kiểm soát nhiều nhân
công hơn, và cứ như vậy măi măi. Phải lưu
ư rằng cuộc chiến không bao giờ thực sự di
dịch ngoài lề vùng tranh giành. Biên giới của Âu Á
chạy qua chạy lại giữa bồn Congo và bờ
bắc Địa Trung Hải ; các đảo Ấn Độ
Dương và Thái B́nh Dương bị luôn luôn chiếm
đi chiếm lại bởi Đại Dương hay
Đông Á ; tại Mông Cổ ranh giới giữa Âu Á và
Đông Á không bao giờ vững ; quanh Bắc Cực
cả ba cường quốc đều sách hoàn nhiều
đất đai rộng lớn phần đông không có người
ở và chưa được ai thám hiểm : nhưng
cán cân quyền lực vẫn luôn luôn gần thế quân
b́nh, và lănh thổ nằm trong trung địa của
mỗi siêu quốc không bao giờ bị xâm phạm.
Lại nữa, sức lao động của các dân cư
bị bóc lột quanh Xích Đạo không thực cần
thiết cho kinh tế thế giới. Nó không thêm ǵ vào tài
sản thế giới v́ những thức ǵ nó sản
xuất cũng bị dùng vào chiến tranh, và mục tiêu
của chiến tranh bao giờ cũng là chiếm ưu
thế để giao một cuộc chiến khác. Qua
sức lao động của họ, các quần dân nô
lệ giúp cho tốc độ chiến tranh liên tục gia
tăng. Nhưng nếu không có họ, thực chất cơ
cấu xă hội thế giới và tiến tŕnh khiến nó
tự duy tŕ sẽ chẳng đổi khác.
Mục đích đầu
tiên của chiến tranh hiện đại (theo nguyên
tắc ư đôi, mục đích này vừa
được công nhận vừa không được công
nhận bởi các đầu năo chỉ đạo
thuộc Đảng Trong) là tận dụng các sản
phẩm của guồng máy tuy không nâng cao mức sống
tổng quát. Ngay từ hồi cuối thế kỷ mười
chín, vấn đề phải thanh toán thặng số hàng
tiêu thụ tiềm tàng trong xă hội công nghiệp. Ngày
nay, khi ít người có đủ ăn, vấn đề
đó hiển nhiên không c̣n cấp bách, và nó không thể
trở thành cấp bách dù không phương thức tàn phá
giả tạo nào được thi hành. Thế giới ngày
nay là một chốn trống trơn, đói khát, hoang tàn,
so với thế giới thời trước năm 1914, và
càng thế hơn khi so với tương lai tưởng tượng
mà dân thời đó phác họa. Vào đầu thế
kỷ hai mươi, viễn tượng của một xă
hội tương lai hết sức giàu có, thư thái, ngăn
nắp và hữu hiệu -- một thế giới sát trùng
bóng loáng của thủy tinh, thép sắt và xi măng
trắng như tuyết -- ngụ trong trí óc của hầu
hết mọi người biết chữ. Hồi đó
khoa học và kỹ thuật phát triển theo một
tốc độ nhanh chóng lạ lùng, và đương
nhiên ai cũng cho rằng nó sẽ tiếp tục phát
triển. Điều này không xảy ra, một phần v́
sự bần cùng hóa do một tràng chiến tranh và cách
mạng gây nên, một phần v́ sự tiến bộ
của khoa học kỹ thuật lệ thuộc thói suy nghĩ
thực nghiệm, một thói không thể tồn tại
trong một xă hội tập hợp chặt chẽ. Đại
để thế giới ngày nay ban sơ hơn năm mươi
năm về trước. Vài vùng lạc hậu có
tiến triển, và một số máy móc luôn luôn có liên
hệ sao đó với chiến tranh và điệp vụ có
được phát triển, nhưng các cuộc thí
nghiệm và các phát minh phần lớn đă ngưng đọng,
và các tàn phá của chiến tranh nguyên tử vào quăng năm
1919-59 không bao giờ được tu sửa. Tuy nhiên
những mối nguy vốn sẵn trong máy móc vẫn c̣n
đó. Ngay khi máy móc xuất hiện lần đầu tiên,
đối với những ai biết suy nghĩ, rơ ràng
sự làm ăn vất vả của con người
với hậu quả lớn là sự bất b́nh đẳng
trong nhân loại không c̣n cần thiết nữa. Nếu máy
móc được cố ư dùng vào mục đích này,
nội vài thế hệ, nạn đói kém, sự lao
lực, sự bẩn thỉu, nạn mù chữ và bệnh
tật sẽ bị loại hẳn. Và trên thực tế,
tuy không được dùng vào một mục tiêu tương
tự, nhưng theo một thứ quá tŕnh tự động
-- do sự sản xuất những của cải không
thể không phân phối -- máy móc đă nâng cao rất
nhiều mức sống của thường dân trong
khoảng năm mươi năm vào cuối thế kỷ
mười chín và đầu thế kỷ hai mươi.
Nhưng cũng rơ ràng,
một sự gia tăng tài sản toàn diện đe phá
hủy -- mà thật, cũng nói được nó tức là
sự phá hủy -- một xă hội dựa trên cấp
bậc. Trong một thế giới ai ai cũng làm việc
ít giờ, có đủ ăn, sống trong một căn nhà
có pḥng tắm và máy lạnh, có một xe hơi hay ngay
cả một máy bay, h́nh thức hiển nhiên nhất và có
lẽ đáng kể nhất của sự bất b́nh
đẳng sẽ biến mất. Chắc chắn có
thể tưởng tượng được một xă
hội trong đó tài sản, theo nghĩa của
cải và tiện nghi cá nhân, được phân phối
đều, trong khi quyền lực nằm trong tay
một giai cấp nhỏ được ưu đăi. Nhưng
trên thực tế một xă hội như vậy không
thể vững bền. V́ nếu sự nhàn rỗi và an
ninh được hưởng bởi mọi người
ngang nhau, đám đông dân chúng đáng nhẽ bị ngu
độn v́ nghèo khổ sẽ biết chữ nghĩa và
sẽ học suy nghĩ lấy một ḿnh ; và khi họ làm
được như vậy, sớm muộn ǵ họ cũng
ư thức rằng thiểu số có đặc quyền không
có công dụng ǵ, và họ sẽ quét bay chúng. Với
thời gian, một xă hội có giai cấp chỉ tồn
tại được trên sự nghèo khổ và ngu
xuẩn. Trở về quá khứ nông nghiệp, như vài
tư tưởng gia hồi đầu thế kỷ hai mươi
mơ mộng, là một giải pháp không thể thực
hiện được. Nó chống chọi với xu hướng
máy móc hóa đă gần thành bản năng tính trên
khắp thế giới. Lại nữa, nước nào c̣n
chậm tiến về kỹ nghệ, tất bất
lực về mặt quân sự, và đâm bị các địch
thủ tân tiến hơn đô hộ một cách trực
tiếp hay gián tiếp.
Giữ quần chúng
trong cảnh nghèo đói bằng cách hạn chế sự
sản xuất hóa phẩm cũng không phải là một
giải pháp mỹ măn. Điều này phần lớn
xảy ra trong giai đoạn cuối của chế độ
tư bản, vào khoảng giữa 1920 và 1940. Kinh tế
của nhiều nước được phép đ́nh
trệ, đất đai không được cày cấy,
vốn liếng trang cụ không được bổ sung,
hàng đám dân chúng bị cản không được làm
việc và bị khép vào cảnh sống dở nhờ
sự bố thí của Nhà Nước. Nhưng biện pháp
này cũng vậy, đưa đến sự suy nhược
về quân sự, và v́ những sự thiếu thốn do
nó ép chịu rơ ràng không cần thiết, nó không tránh
được sự chống đối. Vấn đề
là làm sao giữ cho bánh xe kỹ nghệ vẫn quay mà không
gia tăng tài sản thực sự của thế giới.
Hàng hóa phải được sản xuất, nhưng không
được phân phối. Và trong thực hành, phương
cách độc nhất để đạt kết quả
ấy là giao chiến liên tục.
Động tác chủ
yếu của chiến tranh là phá hủy, không nhất
thiết hủy diệt nhân mạng, chỉ cốt sao tiêu
hủy sản phẩm nhân công. Chiến tranh là một cách
làm nổ tan thành mảnh, làm bay tan trong tầng tĩnh khí,
hay làm ch́m sâu dưới đáy biển, những vật
liệu có thể nếu không sẽ được dùng vào
sự khiến cho quần chúng được quá khỏe
khoắn và nhờ thế dần dà quá thông minh. Ngay trong
trường hợp các binh khí không bị phá hủy,
sự chế tạo chúng vẫn là một phương cách
tiện lợi để làm hao tổn nhân công mà không
sản xuất ǵ có thể tiêu thụ được. Ví
dụ, một Pháo Đài Nổi giam vào nó một số
nhân công đáng lẽ dùng để xây hàng trăm tàu
vận tải. Tận cùng nó bị vứt bỏ làm
sắt vụn v́ lỗi thời sau khi chẳng mang lại
ích lợi ǵ cho ai, rồi một Pháo Đài Nổi khác
được xây với một sự phí phạm nhân công
lớn hơn. Trên nguyên tắc, nỗ lực chiến
tranh luôn luôn được trù tính sao cho tiêu hóa mọi dư
khoản có thể có sau khi các nhu cầu tối thiểu
của dân chúng được ứng đáp. Trong thực
hành, nhu cầu của dân chúng luôn luôn bị định
non giá, với hậu quả là một sự khan hiếm
kinh niên của một nửa số nhu yếu phẩm ; nhưng
sự khan hiếm bị coi như một lợi khí. Đó
là một chính sách có dụng tâm giữ ngay càc đoàn
thể được ưu đăi kề cảnh thiếu
thốn, v́ một t́nh trạng khan hiếm chung gia tăng
tầm quan trọng của những đặc quyền
nhỏ, và như vậy biểu dương sự khác
biệt giữa đoàn thể này với đoàn thể
kia. Theo tiêu chuẩn của đầu thế kỷ hai mươi,
ngay một thành viên Đảng Trong cũng có một
lối sống cần mẫn khắc khổ. Tuy nhiên, vài
sự xa hoa mà họ được hưởng -- như
nhà cửa rộng răi trang bị tử tế, vải may
quần áo tốt hơn, thức ăn nước uống
và thuốc lá ngon hơn, hai ba tên đầy tớ, xe hơi
hay trực thăng riêng -- đặt họ trong một
thế giới khác biệt với đảng viên Đảng
Ngoài, và đảng viên Đảng Ngoài cũng có lợi
lộc tương tự so với đám quần chúng
bị đô hộ mà chúng ta gọi là "dân đen".
Không khí xă hội là không khí của một thành phố
bị bao vây, trong đó sự chấp hữu một
miếng thịt ngựa cũng đủ phân biệt
kẻ sang với kẻ hèn. Đồng thời, ư thức
đang sống trong cảnh chinh chiến tức trong
cảnh nguy khốn, khiến sự trao toàn quyền cho
một đẳng cấp nhỏ tuồng như là một
điều kiện sống c̣n tự nhiên không tránh
nổi.
Chiến tranh, ta sẽ
thấy, thực hiện sự phá hủy cần thiết,
nhưng thực hiện nó một cách dễ chấp
nhận về mặt tâm lư. Trên nguyên tắc, muốn hao
tận sức nhân công dư thừa trên thế giới,
giản dị nhất là xây cất đền đài và
kim tự tháp, là đào lỗ và đắp lỗ lại,
hay cả là sản xuất thật nhiều hàng hóa
rồi đem đốt nó đi. Nhưng làm thế là
chỉ đặt cơ sở kinh tế chứ không
cấp căn bản xúc cảm cho một xă hội có giai
cấp. Điều quan hệ đây không phải là tinh
thần của quần chúng, v́ thái độ của
quần chúng không đáng kể miễn sao họ
được nghiêm giữ trong kiếp lao động, mà
là tinh thần của chính Đảng. Ngay đảng viên
thấp kém nhất cũng được đ̣i hỏi
phải biết việc, chăm chỉ, và cả thông minh
trong một phạm vi nhỏ hẹp, nhưng ngoài ra cũng
cần họ phải là một kẻ cuồng tín cả
tin và ngu xuẩn mà đặc tính là óc sợ sệt, oán
thù, nịnh bợ, và khoái trá tự đắc. Nói
một cách khác, họ cần phải có tâm địa thích
hợp với một t́nh trạng chiến tranh. Chiến
tranh có thực sự xảy ra không không quan hệ, và v́
một cuộc chiến thắng quyết định không
thể có được, cuộc chiến có thắng hay
bại không ăn thua ǵ. Điều thiết yếu là t́nh
trạng chiến tranh phải có. Sự phân tán trí khôn mà
Đảng đ̣i hỏi nơi đảng viên, dễ
thực hiện hơn trong không khí chiến tranh, ngày nay
gần như đă phổ cập, mà cấp bậc
của đảng viên càng cao, sự phân năo đó càng
mạnh. Chính tại Đảng Trong, óc cuồng chiến
và hận thù kẻ địch dữ nhất. Trong khả
năng quản trị, thành viên Đảng Trong thường
cần biết tin tức chiến tranh nào sai, và họ thường
có dịp hiểu rằng toàn thể cuộc chiến
bị ngụy tạo, hoặc không xảy ra, hoặc
được giao v́ những lư do khác hẳn lư do
được tuyên bố : nhưng sự hiểu
biết đó dễ thành vô hiệu v́ phép ư đôi. Đồng thời không một thành viên Đảng Trong nào
bị nao núng một giây trong niềm tin tưởng
thần bí rằng chiến tranh có thực, rằng
nó phải kết cục bằng sự đắc
thắng với Đại Dương hiển nhiên
biến thành bá chủ hoàn cầu.
Mọi thành viên Đảng
Trong tin vào sự chinh phục sắp tới như một
giáo điều. Nó sẽ được hoàn thành,
hoặc nhờ sự chiếm dần đất đai và
nhân đó xây dựng một thế ưu thặng,
hoặc nhờ sự sáng chế ra một binh khí mới
không có phản công. Sự t́m kiếm khí giới mới
không ngưng tiếp tục và là một trong số ít
hoạt động c̣n lại cho phép loại trí óc có sáng
kiến và ưa suy luận lộ diện. Tại Đại
Dương ngày nay, Khoa học, theo nghĩa xưa, gần
như không c̣n nữa. Trong Ngôn Mới không có chữ
"Khoa học". Phương pháp suy tưởng
thực nghiệm làm cơ sở cho mọi thực
hiện khoa học trong quá khứ, chống lại
những nguyên tắc căn bản nhất của Anh Xă.
Ngay sự tiến bộ kỹ thuật cũng chỉ
được chấp nhận nếu sản phẩm
của nó có thể được mang dùng vào sự
giảm bớt tự do con người. Trong mọi ngành
nghệ thuật hữu ích, thế giới hoặc đứng
yên hoặc lùi bước. Cánh đồng được
cày với bừa do ngựa kéo, trong khi sách do máy viết.
Nhưng trong những sự việc tối quan trọng --
thực ra có nghĩa là trong việc chiến tranh và điệp
vụ cảnh sát -- óc t́m hiểu khoa học vẫn
được khuyến khích hay ít nhất được
dung túng. Đảng có hai mục tiêu là chinh phục toàn
thể diện tích trái đất và tiêu diệt cho
sạch mọi khả năng suy tưởng biệt
lập. V́ lẽ đó Đảng phải giải
quyết hai vấn đề lớn. Một là làm sao cưỡng
ư kẻ khác để khám phá xem họ nghĩ ǵ, hai là làm
sao giết được hàng trăm triệu dân trong
khoảng vài giây mà không để họ biết trước.
Sự nghiên cứu khoa học có được tiếp
tục cũng chỉ trong khổ vấn đề đó.
Nhà khoa học ngày nay, hoặc là một nhà tâm lư học
và một viên truy tà hỗn hợp, tra xét một cách
thật tỉ mỉ b́nh thường ư nghĩa của nét
mặt, cử chỉ và giọng nói, thực nghiệm
hiệu quả của thuốc làm khai sự thật,
của liệu pháp đột kích, của phép thôi miên và
sự tra tấn thể xác ; hoặc họ là một nhà hóa
học, một nhà vật lư học hay một nhà sinh
học chỉ lưu tâm đến phần chuyên môn liên
quan đến việc hủy diệt sự sống. Trong các
pḥng thí nghiệm rộng răi của Bộ Ḥa B́nh và
tại các trại thí nghiệm ẩn trong rừng Ba Tây,
trong sa mạc Úc Châu hay trên các đảo hẻo lánh vùng
Nam Cực, hàng toán chuyên viên làm việc không biết
mệt. Có người chỉ lo kế hoạch hóa
việc phối hợp tiếp vận các cuộc chiến
tương lai, người th́ nghĩ cách cho bom lửa càng
ngày càng lớn hơn, cho chất nổ càng ngày càng
mạnh hơn, cho vỏ binh khí càng ngày càng khó xuyên qua hơn
; có người t́m kiếm chất hơi mới lạ sát
sinh hữu hiệu hơn, hay chất độc dễ tan có
thể sản xuất được đủ nhiều
để tiêu hủy cây cối của các lục địa,
hay giống mầm miễn dịch chống mọi kháng
thể ; c̣n kẻ gắng chế tạo một loại xe
có thể đi được dưới đất
giống như tàu ngầm dưới nước, hay
một loại tàu bay không phụ thuộc căn cứ như
thuyền buồm ; thêm kẻ nghiên cứu ngay cả
những khả năng xa vời như tập trung ánh
mặt trời qua thấu kính treo trong không gian cách trái
đất hàng ngàn cây số, hay gây nên những vụ
động đất và sóng thần nhân tạo bằng cách
đụng vào nhiệt độ trong ḷng địa
cầu.
Nhưng không bao giờ
một dự án trên nào đi tới giai đoạn
thực hiện, và không một trong ba siêu quốc nào
dẫn đầu được hai nước kia một
cách rơ rệt. Điều đáng kể là cả ba đă
có với bom nguyên tử một binh khí mạnh hơn
bất cứ khí giới nào có thể được phát
minh bởi các cơ quan nghiên cứu hiện hữu.
Mặc dầu Đảng, theo thói quen, nhận sáng chế
về ḿnh, bom nguyên tử xuất hiện lần đầu
tiên khá sớm, vào những năm bốn mươi, và
được sử dụng trên đại quy mô
khoảng mười năm sau. Vào thời đó hàng trăm
trái bom được đổ xuống các trung tâm
kỹ nghệ, đặc biệt tại Âu Nga, Tây Âu và
Bắc Mỹ. Kết quả các nhóm cầm quyền
mọi nước nhận thức rằng thêm vài trái bom
nguyên tử nữa là xă hội có tổ chức tức
quyền thế của họ sẽ kết thúc. Cho nên sau
đó, tuy không có thoả ước chính thức nào
được nhắc tới, không c̣n sự thả bom
nguyên tử nữa. Cả ba cường quốc chỉ
tiếp tục sản xuất bom nguyên tử để
trữ, pḥng cơ hội quyết định mà họ tin
sớm muộn ǵ cũng sẽ đến. Và trong khi
chờ đợi chiến thuật gần như không
biến chuyển suốt ba bốn chục năm. Trực
thăng được dùng nhiều hơn trước, phi
cơ oanh tạc được thay thế bởi tạc
đạn tự phóng, và chiếc tàu chiến mỏng
mảnh nhường chỗ cho Pháo Đài Nổi ; nhưng
ngoài ra có ít tiến triển. Xe tăng, tàu ngầm, ngư
lôi, ngay cả súng ống lựu đạn vẫn
được dùng. Và bất kể những cuộc tàn sát
bất tận được phóng sự trên báo chí và máy
truyền h́nh, những trận đánh tuyệt vọng
kiểu thời các cuộc chiến trước, trong đó
hàng trăm ngàn hay cả hàng triệu người bị
giết trong vài tuần, không bao giờ tái diễn.
Không một trong ba siêu
quốc nào dám toan tính một thao lược có nguy
đưa đến một sự thất bại trầm
trọng. Nếu có một cuộc tác chiến lớn, thông
thường đó là một vụ đột kích
chống đồng minh. Chiến thuật mà cả ba siêu
quốc theo hay tự dối là theo y hệt nhau. Kế
hoạch là vừa đánh vừa mặc cả, vừa
tấn công lừa đúng lúc, cốt chiếm hữu
một chuỗi căn cứ bao vây trọn vẹn một
nước chư hầu địch, để rồi kư
thỏa hiệp với địch và sống ḥa thuận
với họ đủ lâu năm để ru ngủ
được ḷng nghi kỵ của họ. Trong khi đó
hỏa tiễn chứa bom nguyên tử được
tập trung tại các điểm chiến lược ; sau
cùng các hỏa tiễn sẽ được bắn cùng
một lúc với những hậu quả tàn phá mạnh
đến nỗi sự trả đũa không thể có
được. Lúc đó sẽ là lúc kư một hiệp
ước với cường quốc c̣n lại, trong khi
chuẩn bị một cuộc tấn công khác. Khỏi
cần phải nói, mưu lược trên chỉ là
một giấc mơ ban ngày, không thể thực hiện
được. Lại nữa, không hề có một
trận đánh nào xảy ra ngoài các vùng tranh giành quanh Xích
Đạo và Bắc Cực : không bao giờ thấy
cử một cuộc xâm lấn đất địch nào.
Điều này giải thích v́ sao tại vài nơi, biên
giới giữa các siêu quốc được định
một cách độc đoán. Ví dụ, Âu Á có thể xâm
chiếm dễ dàng các đảo Anh thuộc Âu Châu,
mặt khác Đại Dương có thể đẩy biên
giới tới sông Rhin hay tới tận sông Vistule. Nhưng
làm thế hóa ra vi phạm nguyên tắc toàn vẹn văn
hóa do mọi bên tuân theo dù không nói ra. Nếu Đại Dương
phải chiếm đóng những vùng trước kia có tên
là Pháp và Đức, cần phải hoặc tận sát dân
cư các vùng đó, một công việc cụ thể ra
rất khó khăn, hoặc đồng hóa một dân
số khoảng một trăm triệu người gần
ngang tŕnh độ dân Đại Dương về
mặt tiến triển kỹ thuật. Cả ba siêu
quốc đều có vấn đề tương tự.
Tối cần thiết cho cơ cấu của cả ba là
không để cho dân tiếp xúc với người
ngoại quốc trừ trong giới hạn đó là tù
binh hay nô lệ da màu. Ngay đồng minh chính thức
đương thời cũng luôn luôn bị ngờ
vực là có ư đồ đen tối. Ngoài tù binh ra, thường
dân không bao giờ được nh́n thấy người
Âu Á hay Đông Á, họ c̣n bị cấm không được
học ngoại ngữ. Nếu họ được phép
tiếp xúc với người ngoại quốc họ
sẽ khám phá ra rằng những người này giống
hệt họ, rằng hầu hết những điều nói
về dân ngoại quốc là lời nói dối. Thế
giới niêm phong trong đó họ sống sẽ đổ
vỡ, và ḷng sợ hăi, nỗi oán thù và niềm tin nơi
sự chính tâm của họ, được dựng làm
nền tảng của luân lư, sẽ tan biến. V́ lẽ
vậy, cả ba bên đều hiểu rằng dù Ba Tư,
Ai Cập, Java hay Tích Lan có thay đổi chủ mấy
lần đi nữa, không thể có chuyện xâm phạm
ranh giới chính với bất cứ ǵ ngoài bom đạn.
Ngụ dưới
những ư trên có một sự thể không bao giờ
được nhắc tới, nhưng được
hiểu ngầm và tôn theo : đó chính là sự điều
kiện sống tại cả ba siêu quốc y hệt nhau.
Tại Đại Dương triết thuyết đặc
trưng có tên là Anh Xă, tại Âu Á nó được
gọi là Tân Xích, và tại Đông Á nó có một tên Tàu
thường được dịch là Tử Sùng nhưng
có lẽ phải dịch là Kỷ Vong mới đúng. Công
dân Đại Dương không được phép biết
ǵ về nội dung hai chủ thuyết kia, nhưng
được dạy phải ghê tởm những
thuyết đó v́ chúng man rợ, xúc phạm luân lư cùng
lẽ thường t́nh. Thật ra khó phân biệt
được ba triết thuyết ấy, và những
chế độ do chúng dung dưỡng cũng chẳng khác
biệt nhau chút nào. Nơi nào cũng một cơ cấu
h́nh tháp, với một sự tôn thờ lănh tụ
gần ngang thiên thần, cùng một nền kinh tế xây
dựng nhờ và cho chiến tranh liên tục. Cho nên ba siêu
quốc không những không thể chinh phục được
nhau, c̣n không có lợi lộc ǵ nếu làm thế. Ngược
lại họ c̣n đánh nhau, họ c̣n nâng đỡ
được nhau, như thể ba bó lúa. Và như thường
lệ, nhóm lănh đạo thuộc ba cường quốc
vừa ư thức vừa không ư thức hành động
của ḿnh. Đời sống họ được dâng
hiến cho sự chinh phục thế giới, nhưng
họ cũng biết rằng chiến tranh cần phải
tiếp tục không ngưng và không thắng lợi. Đồng
thời sự không có mối nguy bị chinh phục nuôi dưỡng
sự chối bỏ thực tế, và điều này là
đặc điểm của Anh Xă cùng các ư hệ địch.
Đến đây cần phải nhắc lại điều
đă nói ở trên, rằng v́ trở thành liên tục
chiến tranh đă hoàn toàn biến tính.
Thời xưa, chiến
tranh, gần như theo định nghĩa, là một t́nh
trạng sớm muộn ǵ cũng kết liễu, thường
sau một cuộc thắng lợi hay thất bại không
thể chối căi. Cũng trong quá khứ, chiến tranh là
một trong những phương tiện khiến xă
hội loài người giữ liên lạc với thực
tế thể chất. Các nhà lănh đạo các thời
đều muốn ép môn đồ chấp nhận một
thế giới quan lệch lạc, nhưng họ không dám
khuyến khích ảo tưởng nào có xu thế làm
hại hiệu lực quân sự. Sự thất bại c̣n
có nghĩa là sự mất độc lập hay một
hậu quả bất hảo khác, việc pḥng ngừa
thất bại c̣n được coi trọng. Sự
kiện thể chất không thể bị bỏ quên. Trong
triết thuyết, trong tôn giáo, trong luân lư hay trong chính
trị, hai cộng hai có thể thành năm, nhưng khi phác
họa súng ống hay tàu bay, hai với hai phải là
bốn. Các quốc gia vô hiệu sớm muộn ǵ cũng
bị xâm chiếm, và sự tranh thủ hiệu quả
đối nghịch với ảo tưởng. Lại
nữa, muốn có hiệu năng cần phải biết
học hỏi quá khứ, tức phải có một ư
niệm đúng về sự kiện đă xảy ra trong
quá khứ. Dĩ nhiên, báo chí và sách vở luôn luôn
bị tô điểm hay thiên vị, nhưng sự giả
mạo kiểu được thực hiện ngày nay không
thể có. Chiến tranh là một cách bảo toàn chắc
chắn óc lành mạnh, và trong chừng mực nó liên quan
đến giai cấp lănh đạo, nó có lẽ là cách
bảo toàn hệ trọng nhất. Khi chiến tranh có
thắng có bại, không một giai cấp lănh đạo
nào có thể hoàn toàn vô trách nhiệm.
Nhưng khi chiến tranh
trở thành thực sự liên tục, nó thôi nguy hiểm.
Khi chiến tranh liên tục, không c̣n nhu cầu quân sự.
Sự tiến bộ kỹ thuật có thể ngưng, và
những sự kiện sờ sờ nhất có thể
bị chối bỏ hay coi thường. Như chúng ta
đă thấy, những công cuộc nghiên cứu đáng
được gọi là khoa học vẫn được
theo đuổi v́ mục tiêu chiến tranh, nhưng đấy
vốn là một thứ mộng ban ngày, và sự bất
trưng kết quả nghiên cứu không quan trọng.
Hiệu suất, ngay cả hiệu suất quân sự, không
c̣n được cần đến. Không có ǵ có
hiệu năng tại Đại Dương ngoài Cảnh
Sát Tư Tưởng. V́ không một trong ba siêu quốc nào
có thể bị chinh phục, mỗi siêu quốc thực
ra là một vũ trụ riêng biệt trong đó hầu như
mọi loạn ư có thể yên hành. Thực tế chỉ
có áp lực qua những nhu cầu của đời
sống hàng ngày -- nhu cầu ăn uống, có chỗ trú
ngụ và có quần áo mặc, tránh nuốt thuốc độc
hay bước qua cửa sổ một tầng lầu cao,
đại loại như vậy. Giữa cái sống và cái
chết, giữa thú vui thể xác và nỗi đau thể
xác, vẫn có một sự khác biệt, nhưng chỉ
thế thôi. Bị cắt đứt mọi liên lạc
với thế giới bên ngoài và với quá khứ, công dân
Đại Dương giống như một người
ở trong không gian liên tinh, không có cách nào biết
được hướng nào ở trên, hướng nào
ở dưới. Lănh tụ của một nước như
vậy có quyền chuyên chế hơn vua chúa Ai Cập và
La Mă nhiều. Họ bắt buộc phải tránh không
để môn đồ của họ chết đói đông
đảo tới mức phiền phức, và họ bó
buộc phải giữ một tŕnh độ kỹ
thuật quân sự thấp ngang địch thủ của
họ ; nhưng một khi điều kiện tối
thiểu đó được thỏa măn, họ có
thể bóp méo thực tế thành bất cứ h́nh thù ǵ
tùy ư họ.
Chiến tranh, v́ lẽ
vậy, nếu được xét theo tiêu chuẩn của
các cuộc chiến xưa, chỉ là một sự lừa
bịp. Nó tựa như các cuộc đấu giữa
những động vật nhai lại có cặp xừng
mọc theo một góc cạnh đặc biệt khiến
chúng không thể gây thương tích cho nhau. Nhưng dù nó
không thật, nó không phải là vô nghĩa lư. Nó nuốt
đi thặng số hàng tiêu thụ, và giúp sự pḥng
giữ không khí tinh thần cần thiết cho một xă
hội có giai cấp. Chiến tranh, chúng ta sẽ thấy,
hiện nay là một vấn đề nội bộ
thuần túy. Trong quá khứ, dù phải công nhận
quyền lợi chung của họ và v́ thế phải
giới hạn sự tàn phá của chiến tranh, các nhóm
lănh đạo của mọi nước đánh nhau
thực sự, và kẻ thắng trận bao giờ cũng
cướp phá kẻ thua trận. Ngày nay của chúng ta,
họ không đánh nhau chút nào. Mỗi nhóm lănh đạo
giao chiến chống chính dân ḿnh, và mục đích
của chiến tranh không phải là xâm chiếm lănh
thổ hay ngăn chặn sự xâm lăng đó, mà là
giữ cho cơ cấu xă hội được nguyên
vẹn. Danh từ "chiến tranh", đâm v́ thế
mà lệch lạc. Có lẽ muốn đúng phải nói
rằng, v́ chiến tranh trở thành liên tục, nó đă
thôi tồn tại. Áp lực đặc biệt của nó
trên con người từ thời Tân Thạch Khí tới
đầu thế kỷ hai mươi đă biến
mất và được thay thế bởi một thứ
khác hẳn. Hậu quả sẽ tương tự nếu
ba siêu quốc, thay v́ đánh nhau, thỏa thuận sống
vĩnh viễn ḥa b́nh với nhau, không nước nào
bị xâm phạm trong ranh giới của ḿnh. V́ trong trường
hợp này, mỗi nước vẫn là một vũ
trụ tự bế tỏa, măi măi thoát khỏi ảnh hưởng
đánh thức tỉnh của mối nguy bên ngoài. Một
cuộc ḥa b́nh thực sự trường tồn sẽ y
hệt một cuộc chiến tranh vĩnh cửu. Điều
này -- tuy phần lớn Đảng viên hiểu nó theo
một nghĩa hẹp ḥi -- là thâm ư của khẩu
hiệu Đảng : Chiến tranh là ḥa b́nh.
Winston ngưng đọc một lúc. Đâu đó ngoài xa
một trái bom lửa gầm lên. Cảm giác xung xướng
được ở một ḿnh với một quyển sách
cấm, trong một căn pḥng không có máy truyền h́nh,
không tiêu tan. Cô độc và an toàn là những cảm giác
thuộc thể xác, lẫn lộn sao đó với sự
mệt mỏi của tinh thần anh, với sự êm ái
của chiếc ghế và thoáng gió nhẹ từ cửa
sổ đùa trên má anh. Quyển sách thôi miên anh, hay đúng
hơn nó làm anh yên tâm. Theo lẽ ra, nó không cho anh biết
điều ǵ mới lạ, nhưng phần quyến rũ
chính ở đó. Nó nói lên điều anh đă nói
nếu anh sắp xếp được thành trật
tự những tư tưởng tản mát của anh. Nó
là sản phẩm của một trí óc giống như óc
anh nhưng mạnh mẽ hơn nhiều, có phương pháp
hơn và ít sợ sệt hơn. Những sách hay nhất,
anh nhận thấy, là những quyển nói ra những
điều ḿnh đă biết. Anh vừa giở lại chương
I th́ anh nghe thấy tiếng chân Julia trên cầu thang và anh
vụt ra khỏi ghế để đón nàng. Nàng đặt
túi dụng cụ nâu xuống sàn rồi lao ḿnh vào tay anh.
Đă hơn một tuần hai người chưa gặp
lại nhau.
"Anh đă nhận
được quyển sách," anh nói khi hai người
buông nhau ra.
"Ồ, anh có nó
rồi ư ? Tốt," nàng không mấy hứng thú
đáp, rồi ngay tức th́ nàng ngồi xuống cạnh
ḷ dầu làm cà phê.
Họ không nhắc
lại vấn đề trước khi nằm với nhau
trên giường được nửa tiếng. Khí
chiều đủ ấm để bơ lật khăn
phủ giường lên. Từ dưới nhà vẳng lên
tiếng hát quen thuộc và tiếng giầy ống cọ
trên đá lát. Người đàn bà có bắp tay đỏ
mà Winston thấy mặt bữa đầu tiên tới đây
gần như đóng đinh ngoài sân. Cơ hồ không có
ngày giờ nào bà ta không đi đi lại lại
giữa chậu giặt và giây phơi áo, luân phiên hết
bỏ kẹp vào miệng ngậm lại cất lên
tiếng hát lả lơi. Julia đă nằm nghiêng ḿnh
lại và sắp thiếp ngủ. Anh với tay lấy
quyển sách đang lê trên sàn và ngồi tựa vào đầu
giường.
"Ḿnh phải đọc
quyển này," anh nói. "Cả em nữa. Hội viên
Hội T́nh Thân nào cũng phải đọc nó."
"Anh đọc đi,"
nàng nhắm mắt nói. "Đọc to vào. Đó là cách
hay nhất. Rồi có ǵ anh giảng dần cho em."
Kim đồng hồ
đánh số sáu, có nghĩa là mười tám. Họ c̣n
ba bốn giờ nữa. Anh kẹp quyển sách vào đầu
gối và bắt dầu đọc :
Trải qua lịch sử và có lẽ từ thời Tân
Thạch Khí, có ba hạng dân trên thế giới, Thượng
Lưu, Trung Lưu và Hạ Lưu. Có nhiều cách phân chia
ba hạng ấy, chúng có vô số tên khác nhau và tổng
số mỗi hạng cũng như thái độ của
hạng này đối với hạng kia thay đổi
từ thời này qua thời khác : nhưng cơ
cấu cốt yếu của xă hội không bao giờ
biến chất. Ngay cả sau các vụ nổi loạn
lớn và các vụ đổi thay tưởng như không
thể cải hồi, cơ cấu cũ bao giờ cũng
được tái lập, y như một con quay hồi
chuyển luôn luôn trở về trạng thái quân b́nh, dù có
bị đẩy xa về phía nào chăng nữa.
"Julia, em c̣n thức không ?" Winston hỏi.
"C̣n, anh yêu, em đang
nghe anh. Anh đọc tiếp đi. Tuyệt lắm."
Anh
tiếp tục đọc :
Chủ đích của ba hạng hoàn toàn không thể
hợp nhau. Chủ đích của Thượng Lưu là
giữ ḿnh ngồi tại chỗ. Chủ đích của
Trung Lưu là đổi chỗ với Thượng Lưu.
Chủ đích của Hạ Lưu, khi họ có chủ
đích -- v́ một đặc điểm thường
trực của Hạ Lưu là họ bị khổ
dịch đè ép quá độ, họa chừng mới ư
thức được điều ǵ nằm ngoài đời
sống hàng ngày của họ -- là hủy bỏ mọi
sự phân biệt và thành lập một xă hội trong
đó mọi người sẽ ngang nhau. Cho nên, trải
qua lịch sử một cuộc đấu tranh không đổi
bản sắc diễn đi diễn lại không ngừng.
Hàng thời kỳ dài, Thượng Lưu tưởng như
cầm quyền yên ổn, nhưng chẳng sớm th́
muộn cũng tới lúc họ mất hoặc niềm
tự tín hoặc khả năng cai trị hữu hiệu,
hoặc cả hai. Rồi sau đó, họ bị Trung Lưu
lật đổ, nhờ giới này kết nạp
được Hạ Lưu bằng cách giả vờ tranh
đấu cho tự do và công lư. Vừa đạt
được mục tiêu, Trung Lưu gạt liền
Hạ Lưu cho họ về địa vị tôi đ̣i cũ,
và chính họ biến thành Thượng Lưu. Tiếp
đó, một giới Trung Lưu mới tách hiện
từ một trong hai giới kia hay từ cả hai, và
cuộc tranh đấu bắt đầu trở lại.
Trong ba giới chỉ có Hạ Lưu là không bao giờ thành
công, dù một cách tạm thời, trong việc đeo
đuổi chủ đích. Thật quá ngoa nếu nói
rằng trải qua lịch sử không hề có một
sự tiến bộ cụ thể nào. Ngay ngày nay,
đương lúc suy thời, thường dân có một
đời sống vật chất khá hơn thường dân
mấy thế kỷ trước. Nhưng không một
sự tăng sản, một sự thuần phong, một
cuộc cải cách hay một cuộc cách mạng nào xích
lại gần nổi hơn một ly sự b́nh đẳng
giữa con người. Theo quan điểm của Hạ Lưu,
không một sự thay đổi nào có nghĩa nhiều hơn
một sự thay đổi tên cho quan thầy họ.
Vào khoảng cuối
thế kỷ mười chín, tính hồi quy của mô h́nh
trên đă trở thành hiển nhiên đối với
nhiều quan sát viên. V́ thế thời đó nẩy ra vài
phái tư tưởng gia giải thích lịch sử như
một quá tŕnh tuần hoàn, và đ̣i chứng minh sự
bất b́nh đẳng là một luật đời
bất di bất dịch. Thuyết này dĩ nhiên lúc nào cũng
có kẻ tán đồng, nhưng có một sự thay đổi
hữu ư trong cách nó được phô tŕnh ngày nay.
Thuở xưa, sự cần có một xă hội có giai
cấp là chủ thuyết đặc thù của Thượng
Lưu. Nó được giảng dạy bởi vua chúa và
quư tộc cùng các giáo sĩ, luật gia và đồng
bọn là những kẻ ăn bám họ, và nó được
xoa dịu bởi những lời hứa về sự bù
trừ trong một thế giới tưởng tượng
bên kia nấm mồ. C̣n Trung Lưu, đương khi
họ tranh quyền, bao giờ họ cũng dùng những
danh từ như tự do, công lư, t́nh thân. Song ngày nay, khái
niệm t́nh thân giữa loài người bắt đầu
bị tố cáo bởi những kẻ chưa ở địa
vị chỉ huy nhưng chỉ hy vọng sớm có địa
vị đó. Trong quá khứ, Trung Lưu làm cách mạng dưới
ngọn cờ b́nh đẳng, lật đổ được
bạo quyền cũ tức th́ họ lập một tân
bạo chính. Các giới Trung Lưu mới thực ra tuyên
bố trước bạo chính của họ. Chủ
thuyết xă hội, v́ xuất hiện vào đầu
thế kỷ mười chín và là đốt cuối
của một mạch tư tưởng bắt nguồn
từ những cuộc nổi loạn của dân nô lệ
thời thượng cổ, hăy c̣n bị thâm nhiễm
bởi Trí Không Tưởng đời xưa. Nhưng trong
các dị thuyết xă hội xuất hiện từ
khoảng 1900 trở đi, mục đích thiết lập
tự do và b́nh đẳng càng ngày càng bị công khai
từ bỏ. Các phong trào mới xuất hiện vào
giữa thế kỷ hai mươi như Anh Xă tại
Đại Dương, Tân Xích tại Âu Á, Tử Sùng,
theo danh từ thông dụng, tại Đông Á, có mục
đích rơ ràng là lưu truyền sự vô tự do
và bất b́nh đẳng. Những phong trào mới
này dĩ nhiên sinh trưởng trên các phong trào cũ và có
khuynh hướng giữ lại tên cũ và hâm mộ
bằng đầu lưỡi chủ thuyết cũ. Nhưng
tất cả đều có mục tiêu chặn đứng
sự tiến bộ và kết đọng lịch sử
tại lúc đă chọn. Quả lúc lắc quen thuộc
của đồng hồ được cử động
một lần nữa rồi phải ngưng bặt. Như
thường lệ, Thượng Lưu sẽ bị Trung Lưu
lật đổ và Trung Lưu sẽ trở thành Thượng
Lưu ; nhưng lần này, nhờ biết chiến
thuật, Thượng Lưu sẽ duy tŕ được vĩnh
viễn địa vị.
Các chủ thuyết
nổi lên một phần v́ sự tích tụ của
kiến thức sử học và sự trưởng thành
của ư nghĩa lịch sử không có trước
thế kỷ mười chín. Ngày nay sự vận hành chu
kỳ của lịch sử dễ hiểu hay có vẻ
dễ hiểu ; và nếu hiểu được nó, có
thể biến hóa được nó. Nhưng nguyên nhân
ngầm chính là ngay từ đầu thế kỷ hai mươi
mộng b́nh đẳng giữa con người có thể
đạt được nhờ kỹ thuật. Thực
th́ con người vẫn không b́nh đẳng về
khiếu bẩm sinh, và sự bắt buộc phải phân công
theo chuyên môn khiến người này được ưu
đăi hơn người kia ; nhưng sự phân biệt
giai cấp và sự khác biệt lớn về tài sản
không c̣n thật sự cần thiết nữa. Thuở xa xưa,
sự phân chia giai cấp không những không thể tránh
được mà c̣n là điều mong muốn. Bất b́nh
đẳng là giá phải trả cho nền văn minh. Tuy
nhiên, với sự phát triển của ngành sản
xuất máy móc, vấn đề biến đổi. Dù con
người vẫn c̣n cần phải làm những công
việc khác nhau, không c̣n nhu cầu bắt họ sống
theo mức xă hội và kinh tế khác nhau. Cho nên, theo quan
điểm của các nhóm mới sắp nắm chính
quyền, sự b́nh đẳng không c̣n là một lư tưởng
để đeo đuổi nữa, mà là một mối
nguy phải tránh. Vào những thời buổi ban sơ hơn,
khi trên thực tế không thể có một xă hội công
b́nh và an lành, tin vào đó rất dễ. Ư niệm về
một thiên đàng trần tục trong đó con người
chung sống trong t́nh huynh đệ không cần luật
lệ và không phải cực nhọc đă ám ảnh nhân
trí trong hàng ngàn năm. Và mộng tưởng đó đă
có một ảnh hưởng rơ rệt, ngay cả trên
những nhóm đă lợi dụng được các
biến chuyển lịch sử. Các thừa kế của
những cách mạng Pháp, Anh, Mỹ đă tin một
phần vào chính lời tuyên bố của họ về nhân
quyền, tự do ngôn luận, b́nh đẳng trước
pháp luật, và đă cả cho phép hành động
của họ bị chi phối bởi những lư tưởng
đó. Nhưng vào thập niên thứ tư của thế
kỷ hai mươi, mọi trào lưu tư tưởng
chính trị đâm ra độc đoán. Thiên đàng
trần tục mất uy tín đúng lúc có thể thực
hiện được nó. Chính thuyết mới nào, dưới
tên nào chăng nữa, cũng quay về cấp bậc và
tập hợp. Và trong phối cảnh nặng nề chung
xảy ra khoảng 1930, những biện pháp đă bị
bỏ từ lâu, có khi từ hàng trăm năm -- như
bỏ tù không cần xử, dùng tù binh làm nô lệ, hành
h́nh công cộng, tra tấn để lấy khẩu cung, dùng
con tin, di đày quần chúng -- không những trở thành
thông thường, c̣n được chấp nhận và bênh
vực bởi những kẻ tự cho ḿnh là sáng suốt
tiến bộ.
Phải sau gần mười
năm ngoại chiến, nội chiến, cách mạng và
phản cách mạng tại khắp nơi trên thế
giới, Anh Xă và địch thủ mới lộ diện
là chính thuyết tác toàn. Nhưng chúng đă được
báo hiệu bởi một vài chế độ, thường
được gọi là chế độ cực quyền,
xuất hiện cũng vào thế kỷ hai mươi nhưng
sớm hơn, và những đường nét chính của
thế giới sẽ nhô khỏi cảnh hỗn độn
đă được thấy rơ từ lâu. Loại dân nào
sẽ cai trị thế giới cũng đă thấy
được rơ. Tân quư tộc phần lớn gồm các
viên chức, khoa học gia, kỹ thuật gia, trưởng
nghiệp đoàn, chuyên viên quảng cáo, xă hội học
gia, giáo sư, kư giả và chính trị gia chuyên nghiệp.
Những người này, xuất thân từ giai cấp công
nhân trung lưu và thượng đẳng giai cấp
thợ thuyền, đă được đào tạo và
tập họp bởi thế giới bạc bẽo của
kỹ nghệ độc quyền và trung ương
tập quyền. So với đồng nghiệp họ
thuở xưa, họ ít tham hơn, ít bị cám dỗ
bởi sự xa hoa hơn, ham quyền lực thuần túy hơn,
và trên hết ư thức hơn những điều họ
làm cùng quyết tâm đàn áp đối lập hơn.
Sự khác biệt này là điểm chủ yếu. Sánh
với cảnh ngày nay, mọi bạo quyền trong quá
khứ đều thiếu nhẫn tâm và không hữu
hiệu. Các nhóm cầm quyền xưa luôn luôn có phần
bị tiêm nhiễm bởi tư tưởng tự do, và
vui ḷng thả lỏng khắp nơi, chỉ xét đến
hành động công khai mà bất kể những ư nghĩ
của dân họ. Ngay giáo hội Công Giáo thời Trung
Cổ cũng tỏ ra khoan dung theo tiêu chuẩn hiện
đại. Một phần lư do là thuở xưa không
một chính quyền nào có khả năng quản thúc thường
trực công dân ḿnh. Song le, sự phát minh ra máy in khiến
sự thao tác dư luận dễ dàng hơn, phim ảnh và
máy phát thanh làm diễn tŕnh đó tiến xa hơn
nữa. Với sự phát triển máy truyền h́nh và
sự tiến bộ kỹ thuật cho phép vừa thâu
vừa phát trên một chiếc máy, đời sống riêng
tư kết thúc. Mỗi công dân, hay ít nhất mỗi công
dân đủ quan trọng để đáng được
giám thị, có thể bị đặt hai mươi tư
tiếng mỗi ngày dưới sự soi mói của
cảnh sát và trong lời tuyên truyền của nhà
chức trách, trong khi các ngơ thông tin khác bị đóng kín.
Lần đầu tiên ngày nay, có thể áp đặt không
những ḷng hoàn toàn phục tùng ư muốn nhà nước,
mà cả sự đồng quan điểm trọn vẹn
về mọi vấn đề.
Sau
thời cách mạng
vào những năm năm mươi, sáu mươi, xă
hội kết hợp lại, vẫn như bao giờ, thành
Thượng Lưu, Trung Lưu và Hạ Lưu. Nhưng
giới Thượng Lưu mới, khác với tiền nhân,
không hành động theo linh tính mà biết phải làm ǵ
để bảo vệ địa vị. Đă từ lâu
người ta nhận thức rằng nền tảng
vững chăi nhất của chế độ quả đầu
là chủ nghĩa tập thể. Tài sản và đặc
quyền dễ được bảo vệ nhất khi chúng
thuộc quyền sở hữu chung. Sự gọi là "băi
bỏ quyền sở hữu tư" xảy ra vào
những năm giữa thế kỷ, thật ra, có nghĩa
là tập trung quyền sở hữu vào ít tay hơn trước :
nhưng với sự khác biệt là các sở hữu
chủ mới là một nhóm thay v́ một đám tư nhân.
Về mặt cá thể, không một Đảng viên nào
chiếm hữu ǵ, trừ vài vật dụng riêng không
đáng kể. Về mặt tập thể Đảng
chiếm hữu mọi thứ tại Đại Dương,
v́ Đảng kiểm soát mọi thứ, và tùy nghi sử
dụng các sản phẩm. Vào những năm sau Cách
Mạng, Đảng có thể bước vào địa
vị lănh đạo mà không gặp sự đối kháng
nhờ toàn thể quá tŕnh được miêu tả như
một cuộc tập thể hóa. Đă tự bao giờ có
sự thừa nhận rằng nếu giai cấp tư
bản bị cướp quyền sở hữu, Xă Hội
Chủ Nghĩa thế nào cũng nối tiếp : và không
chối căi được, dân tư bản đă bị
truất hết tài sản. Các xưởng, mỏ, đất,
nhà, xe -- mọi thứ đă được tước
khỏi tay họ : và v́ những thức đó không c̣n
là tài sản tư, nó phải là của công. Anh Xă, v́
xuất phát từ phong trào xă hội và thừa kế
ngữ cú rỗng của nó, đă thực ra thi hành điều
chính của chương tŕnh xă hội ; với kết
quả đă thấy và định trước là sự
bất b́nh đẳng kinh tế trở thành vĩnh
viễn.
Nhưng những vấn
đề lưu truyền một xă hội có cấp
bậc xâu xa hơn thế. Chỉ có bốn cách khiến
một nhóm lănh đạo mất quyền. Hoặc họ
bị chinh phục bởi ngoại lai, hoặc họ cai
trị thiếu hiệu quả đến nỗi quần
chúng bị kích động nổi loạn, hoặc họ
để cho một giới Trung Lưu mạnh và bất măn
thành h́nh, hoặc họ mất tự tín và ư chí cai
trị. Những lư do này không có tác dụng đơn
độc, và theo thường lệ cả bốn đều
góp mặt ít nhiều. Giai cấp lănh đạo nào có
thể pḥng ngừa được cả bốn trường
hợp trên có thể cầm quyền măi măi. Tận cùng
yếu tố quyết định chính là thái độ
tinh thần của giai cấp lănh đạo.
Sau
giữa thế
kỷ hiện tại, mối nguy đầu thật ra
đă biến mất. Trên thực tế, nước nào
trong ba cường quốc đang chia nhau thế giới cũng
không thể bị xâm chiếm nổi, và chỉ có
thể bị chinh phục nhờ sự biến đổi
dần dần dân số, một điều mà một chính
phủ có quyền rộng răi tránh được dễ dàng.
Mối nguy thứ hai cũng chỉ là một mối nguy trên
lư thuyết. Quần chúng không bao giờ tự động
chống đối, và họ không bao giờ nổi
loạn v́ bị áp bức. Quả vậy, họ c̣n không
được phép có tiêu chuẩn để so sánh,
họ c̣n không bao giờ ư thức được sự
họ bị ức hiếp. Những vụ khủng
hoảng kinh tế thuở xưa hoàn toàn không có tính
tất yếu và bây giờ không được phép
xảy ra, c̣n nhiều cuộc hỗn độn khác
mạnh chẳng kém có thể và đă có nhưng không có
hậu quả chính trị bởi không có cách nào nói lên
sự bất măn. Về vấn đề sản xuất dư
thừa, tiềm tàng trong xă hội của chúng ta từ
khi kỹ thuật máy móc phát triển, nó được
giải quyết bằng mẹo chiến tranh liên tục (xem
chương III), một mánh khóe c̣n có ích lợi khép tinh
thần dân chúng vào mức cần thiết. Cho nên, theo quan
điểm của những nhà lănh đạo của chúng
ta, những mối nguy thật t́nh đáng kể là sự
tách hợp của một nhóm dân mới có khả năng,
không được dùng đúng sức và ham quyền, cùng
sự sinh trưởng của óc tự do và hoài nghi trong
chính hàng ngũ họ. Có thể nói, vấn đề liên
quan đến giáo dục. Đó là làm sao không ngưng
uốn nắn tâm thức của cả nhóm chỉ huy
lẫn nhóm thừa hành đông đảo ở dưới.
Tâm thức quần chúng chỉ cần bị ảnh hưởng
một cách tiêu cực thôi.
Biết bối cảnh
trên, có thể suy ra nếu chưa rơ, cơ cấu
tổng quát của xă hội Đại Dương. Trên
đỉnh cao của kim tự tháp là Bác. Bác không thể
sai lầm và đầy uy lực. Mỗi thành công, mỗi
thành quả, mỗi thắng lợi, mỗi khám phá khoa
học, mọi hiểu biết, mọi khôn ngoan, mọi
hạnh phúc, mọi đức tính, được coi như
xuất từ sự hướng dẫn và gợi hứng
của Bác. Chưa ai nh́n thấy Bác bao giờ. Bác là
một khuôn mặt trên biển tường, một
tiếng nói trong máy truyền h́nh. Chúng ta có thể khá
chắc rằng Bác không bao giờ chết, c̣n Bác sinh ngày
nào là một điểm rất khó nhất quyết. Bác là
trá h́nh được Đảng chọn để
tự tŕnh diện với thế giới. Nhiệm vụ
của Bác cốt là thành tiêu điểm cho t́nh yêu,
hận thù và sùng kính là những cảm xúc dễ hướng
về một cá nhân hơn là về một tổ chức.
Dưới Bác là Đảng Trong, với số thành viên
giới hạn đến sáu triệu, hay không đến
hai phần trăm tổng số dân Đại Dương.
Dưới Đảng Trong là Đảng Ngoài, có thể
được coi là tay chân nếu Đảng Trong
được mô tả như khối óc của nhà nước.
Dưới hơn là đám quần chúng đần độn
mà chúng ta quen gọi là "dân đen", gần
khoảng tám mươi nhăm phần trăm dân số.
Theo danh từ dùng trong đoạn phân loại trên, dân
đen là Hạ Lưu : c̣n đám dân nô lệ ở vùng
đất Xích Đạo, luôn luôn qua hết tay kẻ
chinh phục này đến tay kẻ chinh phục kia, họ
không phải là một phần tử thường trực
hay thiết yếu của cơ cấu.
Trên nguyên tắc,
sự thuộc thành phần ba giới không theo cha
truyền con nối. Theo lư thuyết con của thành viên
Đảng không sinh ra thuộc Đảng Trong. Sự gia
nhập chi Đảng nào cũng qua một cuộc thi
cử vào lúc mười sáu tuổi. Không có sự kỳ
thị chủng tộc hay ưu thế của một
tỉnh này trên tỉnh kia. Dân Do Thái, dân da đen, dân Nam
Mỹ thuần chủng thổ dân, được giữ
chức vụ tối thượng trong Đảng, và
quản trị viên của vùng nào bao giờ cũng
được chọn trong dân cư vùng đó. Không
tại một phần Đại Dương nào dân chúng có
cảm tưởng ḿnh bị đô hộ và cai trị
từ một thủ đô xa xăm. Đại Dương
không có thủ đô và vị nguyên thủ quốc gia không
ai biết ở đâu. Trừ việc Anh ngữ là thông
ngôn chính và Ngôn Mới là ngôn ngữ chính thức,
Đại Dương không trung ương tập quyền
chút nào. Những người lănh đạo không gắn bó
với nhau v́ máu mủ mà v́ sự tán đồng một
chủ nghĩa chung. Quả th́ xă hội của chúng ta phân
tầng và phân tầng một cách rất khắt khe,
thoạt nh́n tưởng theo phép cha truyền con nối.
Sự di động giữa các đoàn thể khác nhau ít
xảy ra hơn duới thời tư bản hay cả dưới
thời tiền kỹ nghệ. Giữa hai chi Đảng có
một chút trao đổi nhưng chỉ vừa đủ
để bảo đảm sự loại trừ kẻ
yếu kém khỏi Đảng Trong, và sự vô hại hóa
đảng viên Đảng ngoài có tham vọng bằng cách
cho họ lên chức. Trong thực hành, dân đen không
được phép thi đậu vào Đảng. Những
người có khiếu nhất trong đám họ, có
thể biến thành ổ bất măn, bị Cảnh Sát Tư
Tưởng điểm mặt và trừ khử, thế thôi.
Nhưng sự thể này không nhất thiết phải vĩnh
viễn, và cũng không phải là một vấn đề
nguyên tắc. Đảng không phải là một giai
cấp theo nghĩa xưa. Đảng không nhằm
truyền quyền cho con cái ḿnh v́ chúng là con cái ; và
nếu không có cách nào khác để giữ những người
có khả năng nhất nơi tột đỉnh, Đảng
rất sẫn sàng tuyển lựa cả một thế
hệ mới từ hàng ngũ dân đen. Trong những năm
mấu chốt, sự Đảng không phải là một
tổ chức di truyền đă có công dụng làm tê
liệt phe đối lập. Thứ đảng viên xă
hội cũ, được huấn luyện để
chống đối cái gọi là "đặc quyền
giai cấp", tin rằng cái ǵ không được di
truyền không thể bền lâu. Họ không hiểu
rằng sự liên tục của một nhóm trùm đầu
không cần có thể chất, họ không ngẫm rằng
các giới quư tộc kế tập luôn luôn chóng tàn, trong
khi những tổ chức dưỡng tuyển như giáo
hội Gia Tô kéo dài có khi cả trăm hay ngh́n năm.
Bản chất của phép quả đầu không phải
là sự cha truyền con nối mà là sự dai dẳng
của một thế giới quan và một lối sống
do người chết áp người sống phải theo.
Một nhóm chỉ đạo c̣n là một nhóm chỉ
đạo nếu chỉ định được kẻ
kế vị. Đảng không lo lưu truyền máu mủ
của ḿnh mà lo lưu truyền chính ḿnh. Ai là kẻ
nắm quyền không quan trọng, miễn cơ cấu
đẳng cấp vẫn y nguyên.
Mọi tín ngưỡng,
tập tục, sở thích, cảm xúc, thái độ tinh
thần đặc trưng của thời chúng ta thực
ra có phận sự giữ vững sự thần bí
của Đảng và ngăn sự nhận thức
thực chất của xă hội ngày nay. Hiện giờ
sự phản kháng cụ thể hay bất cứ động
tác chống đối sơ khởi nào cũng không
thể có được. Từ dân đen không có ǵ đáng
ngại. Để mặc họ yên, họ sẽ tiếp
tục làm việc, sinh sản rồi chết, hết
thế hệ này đến thế hệ kia, từ
thế kỷ trước sang thế kỷ sau, không
những không có xung lực phản kháng mà c̣n không có tư
cách hiểu rằng thế giới có thể có bộ
mặt khác. Họ chỉ có thể trở thành nguy
hiểm nếu sự tiến bộ kỹ thuật công
nghiệp buộc phải nâng cao tŕnh độ giáo
dục của họ ; nhưng v́ sự tranh đua quân
sự và thương mại không quan hệ nữa, tŕnh
độ giáo dục quần chúng hiện nay suy giảm.
Quần chúng có hay không có quan niệm ǵ bị coi như
không đáng kể. Có thể để cho họ có
tự do tư tưởng v́ họ không có trí tuệ. Trái
lại, nơi Đảng viên, không thể dung thứ
một sự lệch lạc quan điểm nhỏ
nhặt về một vấn đề tầm phào nhất
nào.
Đảng viên sống
từ lúc sinh ra tới lúc chết dưới mắt
của Cảnh Sát Tư Tưởng. Ngay khi họ ở
một ḿnh, họ không bao giờ chắc được
họ có một ḿnh. Dù ở đâu chăng nữa, lúc
ngủ hay lúc thức, khi làm việc hay nghỉ ngơi,
trong bồn tắm hay trong giường, họ cũng có
thể bị giám sát th́nh ĺnh mà không được
cảnh cáo và kbông được biết rằng ḿnh
đang bị ḍ xét. T́nh giao hảo, thú giải trí, cách cư
xử đối với vợ con, sắc mặt khi ở
một ḿnh, những lời lẩm bẩm trong giấc
ngủ, cả những cử động đặc
biệt của thân xác, việc ǵ của họ cũng
bị quan sát tỉ mỉ. Không những bất cứ hành
vi quả thật xấu nào của họ, mà bất
cứ thái độ khác thường nào, dù nhỏ,
bất cứ sự thay đổi thói quen nào, bất
cứ điệu bộ bối rối nào, có thể là
triệu chứng của một cuộc chiến đấu
nội tâm, đều chắc chắn bị điều
tra ra. Họ không có tự do chọn lựa bất cứ
chiều hướng ǵ. Mặt khác, hành vi của họ
không được luật pháp hay một bộ qui lệ
cư xử định chế rơ ràng. Tại Đại Dương
không có luật lệ. Những tư tưởng hay hành
động chắc chắn đưa đến cái
chết nếu bị bại lộ không bị chính
thức cấm, và những cuộc thanh trừ vô tận,
những vụ bắt bớ, tra tấn, bỏ tù và hóa hơi
không bị bắt chịu như h́nh phạt của
tội thực sự phạm phải, mà cốt tiêu
diệt những kẻ có thể phạm tội khi nào
đó trong tương lai. Đảng viên bắt buộc
phải có không những lập trường đúng mà
cả bản năng đúng. Nhiều tín điều và thái
độ đ̣i hỏi nơi họ không bao giờ
được tuyên bố trắng ra, và không thể phát
biểu chúng mà không lột trần mâu thuẫn nội
tại Anh Xă. Nếu Đảng viên là một kẻ chính
thống tự nhiên (theo Ngôn Mới là một kẻ ư
tốt), trong mọi trường hợp, không cần
suy nghĩ, họ sẽ biết thế nào là ḷng tin đúng
hay cảm xúc mong muốn. Nhưng dù sao đi nữa,
một sự huấn luyện tinh thần kỹ càng
bắt đầu từ thuở thiếu thời tập
trung quanh những danh từ Ngôn Mới như chặn
tội, trắng đen, ư đôi, khiến họ không
có khả năng suy nghĩ quá xâu xa về bất cứ
vấn đề ǵ.
Đảng viên
được trông đợi không có cảm xúc riêng tư
và không ngớt hăng hái. Họ được kể như
sống trong một sự cuồng nhiệt liên tục
của hận thù đối với quân ngoại địch
và nội phản, của niềm hân hoan chiến thắng,
của sự tự hạ trước uy quyền và óc khôn
ngoan của Đảng. Những sự bất măn gây ra
bởi nếp sống trơ trụi không thỏa ư
của họ được quyết tâm hướng ra ngoài
và được làm tan biến nhờ những kỹ
xảo như Hai Phút Hận Thù, và những lập
luận có thể đưa đến một thái độ
ngờ vực hay phản nghịch bị bóp chết trước
nhờ kỷ luật nội tâm sớm luyện đạt
của họ. Chặng kỷ luật đầu tiên và
đơn giản nhất, có thể được
dạy cho trẻ nhỏ, có tên là chặn tội theo
Ngôn Mới.Chặn tội chỉ năng
khiếu dừng bặt, như thể do linh tính, trước
ngưỡng cửa của một tư tưởng nguy
hiểm. Nó bao gồm khả năng không tóm lấy
những sự tương tự, không nhận thấy
những sự sai lầm luận lư, không hiểu những
lư lẽ giản dị nhất nếu chúng nghịch
với Anh Xă, và chán ngán hay ghét bỏ bất cứ ḍng tư
tưởng nào có thể dẫn đến một hướng
tà thuyết. Chặn tội, tóm lại, chỉ
sự đần độn tự vệ. Nhưng ngu độn
không đủ. Ngược lại, sự chính thống
theo toàn nghĩa đ̣i hỏi một sự kềm chế
diễn tŕnh tư tưởng cá nhân trọn vẹn như
sự kềm chế thân xác của người làm tṛ nhào
lộn vặn vẹo. Xă hội Đại Dương
tận cùng dựa trên niềm tin Bác có sức vạn năng
và Đảng không thể lầm lẫn. Nhưng v́
thực ra Bác không có sức vạn năng và Đảng
có lầm lẫn, cần có một sự uyển
chuyển dẻo dai từng giây từng phút trong việc bàn
giải sự kiện. Bí quyết đây là trắng
đen. Như nhiều danh từ Ngôn Mới, chữ này
đồng thời có hai nghĩa trái ngược nhau. Áp
dụng cho kẻ đối nghịch, nó chỉ cái thói trâng
tráo nói đen thành trắng ngược với sự
thể hiển nhiên. Áp dụng cho một Đảng viên
nó chỉ một ư chí chính trực nói trắng thành đen
khi kỷ luật Đảng đ̣i hỏi. Nhưng nó cũng
chỉ khả năng tin rằng đen là trắng, và hơn
nữa,biết rằng đen là trắng và quên
đi sự ḿnh đă từng tin ngược lại.
Điều này đ̣i hỏi một sự xuyên tạc quá
khứ liên tục thực hiện được nhờ
hệ thống tư tưởng bao gồm mọi thứ
được mệnh danh là ư đôi trong Ngôn
Mới.
Sự xuyên tạc quá
khứ cần thiết v́ hai lư do, trong đó có môt lư do
phụ, có thể nói là pḥng ngừa. Lư do phụ là
sự Đảng viên cũng như dân đen chịu
đựng cảnh hiện tại một phần v́
họ không có tiêu chuẩn để so sánh. Họ
phải bị cắt khỏi quá khứ, hệt như
họ phải bị cúp khỏi các nước ngoài, v́
họ cần phải tin rằng họ sướng hơn
tổ tiên họ, rằng mức tiện nghi vật
chất trung b́nh luôn luôn lên cao. Nhưng lư do quan trọng
hơn nhiều của sự tu chỉnh quá khứ là nhu
cầu bảo vệ sự không thể lầm lẫn
của Đảng. Không những chỉ v́ các bài diễn
văn, các bản thống kê, các tài liệu đủ
loại luôn luôn cần được cập nhật hóa
với mục đích chứng tỏ rằng các dự
đoán của Đảng lúc nào cũng đúng. Mà cũng
v́ không bao giờ một sự thay đổi trong chủ
thuyết hay đường lối chính trị nào có
thể được chấp nhận. Bởi đổi
ư hay đổi chính sách là thú nhận sự kém cỏi.
Nếu ví dụ, Âu á hay Đông Á (nước nào cũng
được) là kẻ thù hôm nay, nước đó
phải măi măi là kẻ thù. Và nếu sự kiện nói
khác th́ sự kiện phải bị sửa đổi. Thành
thử lịch sử luôn luôn bị viết lại.
Sự giả mạo hàng ngày quá khứ này, do Bộ
Sự Thật đảm trách, cần thiết cho sự
vững chắc của chế độ chẳng kém
việc đàn áp và ḍ thám của Bộ T́nh Yêu.
Tính đổi thay
của quá khứ là trung căn của Anh Xă. Theo lập
cứ, những sự kiện xảy ra trong quá khứ không
có sự hiện hữu khách quan, chỉ tồn tại
trong văn kiện hay kư ức con người. Quá khứ
là điều ǵ tài liệu và kư ức đều
thừa nhận. Và v́ Đảng có toàn quyền kiểm
soát mọi tài liệu cũng như toàn quyền kiểm
soát trí óc Đảng viên, do đó quá khứ là điều
ǵ Đảng khiến vậy. Kết quả cũng là
mặc dầu quá khứ bị sửa đổi, nó không
bao giờ biến chất trong bất cứ trường
hợp nào. V́ khi nó đă được tái tạo dưới
bất cứ h́nh thức nào theo nhu cầu đương
thời, thuyết mới là quá khứ, và không
một quá khứ nào khác đă từng được có
bao giờ. Luận điệu này vẫn vững ngay khi, như
thường xảy ra, cùng một sự kiện bị
sửa đi sửa lại nhiều lần trong năm
đến nỗi không thể nhận ra được. Lúc
nào Đảng cũng nắm trong tay sự thật
tuyệt đối, và hiển nhiên sự tuyệt đối
không bao giờ khác nay. Ta sẽ thấy rằng sự
kiểm soát quá khứ trên hết tùy thuộc sự
huấn luyện trí nhớ. Khiến chắc mọi văn
kiện trùng hợp với sự chính thống nhất
thời chỉ là một hành động máy móc. C̣n
cần phải nhớ rằng sự kiện đă
xảy ra theo cách muốn. Và nếu cần phải sắp
lại kỷ niệm hay sửa lại văn kiện, cũng
cần phải quên ḿnh đă làm vậy. Phép quên
đó có thể học được như bất
cứ thuật tinh thần nào khác. Nó được
luyện bởi phần lớn Đảng viên, và chắc
chắn bởi hết những kẻ vừa thông minh
vừa chính thống. Theo Ngôn Cũ nó được
gọi một cách trắng trợn là "kiểm soát
thực tế". Theo Ngôn Mới nó là ư đôi,
tuy ư đôi có nghĩa rộng hơn thế.
Ư đôi chỉ khả năng giữ đồng thời trong tâm trí
hai niềm tin trái nghịch nhau và chấp nhận cả
hai. Nhà trí thức của Đảng biết kư ức
của ḿnh phải biến đổi theo chiều hướng
nào ; do đó họ biết họ đùa với thực
tế, nhưng nhờ thi triển ư đôi họ cũng
tự an ḷng đă không xúc phạm thực tế. Quá tŕnh
này phải được ư thức kẻo không được
thực hành với đủ chính xác, nhưng nó cũng
cần sự vô ư thức kẻo mang theo mặc cảm
giả dối và tội lỗi nối tiếp. Ư đôi nằm ngay trong ḷng Anh Xă, và tác động cốt yếu
của Đảng là vừa sử dụng tính lừa
bịp có ư thức vừa lưu giữ sự bền chí
đi đôi với tính trung thực trọn vẹn.
Cố ư nói dối trong khi tin thực vào lời nói
dối, quên đi bất cứ sự kiện nào đă
trở thành bất tiện, rồi, khi lại thấy
cần, lôi sự kiện đó ra khỏi quên lăng đúng
đủ thời gian cần thiết, chối bỏ
sự hiện hữu của thực tế khách quan đồng
thời kể đến thực tế do ḿnh chối
bỏ -- toàn quá tŕnh đó là một sự tất
yếu nhất thiết. Ngay lúc dùng từ ư đôi cần phải thi triển ư đôi.
V́ sử
dụng từ đó tức là công nhận ḿnh gian lận
với thực tế ; nhờ một sự thực hành ư
đôi mới, có thể xóa bỏ sự hiểu
biết này, và cứ như vậy măi măi với sự
dối dá đi trước sự thật một bước.
Tận cùng nhờ ư đôi Đảng đă có
thể -- và có lẽ, theo như ta biết, tiếp tục
có thể trong hàng ngàn năm -- khiến ḍng lịch
sử ngưng đọng.
Mọi quả đầu
chế trong quá khứ đă mất quyền, hoặc v́
bị cốt hóa, hoặc v́ trở nên nhu nhược.
Hoặc họ đâm ngu độn và ngạo nghễ, không
biết tự sửa cho hợp với biến cảnh
rồi bị lật đổ ; hoặc họ đâm
cởi mở và nhút nhát, nhượng bộ khi phải dùng
vơ lực, rồi cũng bị lật đổ. Có
thể nói, họ bị hạ hoặc bởi sự có ư
thức, hoặc bởi sự vô ư thức. Thành quả
của Đảng là đă dựng lên một hệ
thống tư tưởng trong đó cả hai điều
kiện có thể cùng tồn tại. Và nền thống
trị của Đảng, muốn vĩnh cửu, không
thể dựa trên một căn bản tinh thần khác.
Nếu muốn cai trị và tiếp tục cai trị
phải biết phân tán óc thực tế. Bởi bí
quyết của sự cầm quyền là phối hợp
niềm tin nơi tính vô quá của chính ḿnh với
khả năng rút bài học từ những lầm lỗi
qua.
Chẳng cần phải
nói, những kẻ xử dụng ư đôi một cách
tinh tế nhất là những kẻ đă sáng chế ra ư
đôi và biết nó là một hệ thống gian
lận tinh thần rộng lớn. Trong xă hội chúng ta,
những kẻ biết nhiều nhất những sự
xảy ra cũng là những kẻ ít thấy rơ nhất
thực trạng của thế giới. Thông thường,
sự hiểu biết càng rộng, ảo tưởng càng
lớn ; càng thông minh, càng loạn trí. Một bằng
chứng hiển nhiên là óc cuồng chiến tăng cường
độ với sự thăng tiến trên bực thang xă
hội. Những kẻ có thái độ gần như
hợp lư nhất đối với chiến tranh là
những dân bị đô hộ tại các vùng đất
tranh giành. Trong quan điểm họ, chiến tranh chỉ là
một tai họa liên tục quét đi quét lại tấm
thân họ như thể một đợt sóng triều.
Phe nào thắng hay bại là một vấn đề hoàn
toàn dửng dưng đối với họ. Họ
thừa hiểu rằng một sự thay đổi bá
chủ chỉ có nghĩa là họ sẽ làm việc y như
trước cho chủ mới và chủ mới sẽ đối
xử với họ y hệt chủ cũ. Đám dân lao
động được ưu đăi hơn một chút
mà chúng ta gọi là "dân đen " chỉ có ư
thức từng cơn về chiến tranh. Khi cần có
thể dồn họ vào cơn cuồng hăi và cuồng
hận, nhưng được để yên, họ có
thể quên bẵng thật lâu sự đang hiện
hữu của chiến tranh. Chỉ trong hàng ngũ của
Đảng, và trên hết tại Đảng Trong, mới
thấy được ḷng hăng hái say chiến tranh
thực sự. Sự chinh phục thế giới được
tin chắc vào nhất bởi những kẻ biết không
thể đạt được nó. Mối liên lạc
đặc biệt của hai nghịch trạng -- sự
hiểu biết với sự ngu xuẩn, sự vô luân
với sự cuồng tín -- là một trong những điểm
đặc trưng của xă hội Đại Dương.
Chủ thuyết chính thức đầy rẫy mâu
thuẫn ngay khi không có lư do thực tiễn khiến
phải mâu thuẫn. Nên chi, Đảng bác bỏ và chê
bai mọi nguyên tắc do phong trào xă hội khởi xướng,
nhưng Đảng chọn làm như vậy nhân danh
thuyết xă hội. Đảng giảng dạy một
sự khinh khi dân lao động chưa từng thấy qua
các thế kỷ, nhưng Đảng bắt Đảng viên
mặc một bộ đồng phục có thời dành riêng
cho dân thợ thuyền và v́ lẽ đó được
chấp nhận. Đảng triệt để ngầm phá
t́nh đoàn kết trong gia đ́nh, nhưng Đảng
gọi vị lănh đạo của ḿnh bằng một tên
trực tiếp nhắc đến ḷng trung đối
với gia đ́nh. Ngay cả tên của bốn Bộ cai
trị chúng ta cũng phô bày một tính trâng tráo trong
sự cố ư đảo lộn sự t́nh. Bộ Ḥa B́nh
liên hệ với chiến tranh, Bộ Sự Thật
với sự dối trá, Bộ T́nh Yêu với sự tra
tấn và Bộ Sung Túc với sự đói kém. Những
mâu thuẫn trên không ngẫu nhiên mà cũng không là
kết quả của tính giả dối thường t́nh,
đó là những sự quyết tâm thực hành ư
đôi. Bởi phải dung ḥa các mâu thuẫn mới
giữ vững được quyền hành. Không thể phá
vỡ được chu tŕnh cũ bằng cách nào khác.
Nếu muốn tránh hẳn sự b́nh đẳng giữa
con người -- nếu Thượng Lưu, như ta
gọi giới cầm đầu, muốn giữ măi măi
địa vị của ḿnh -- th́ điều kiện tinh
thần át trội phải là trạng thái điên loạn
kiềm chế.
Nhưng có một câu
hỏi mà cho tới lúc này chúng ta gần như bỏ qua.
Đó là tại sao lại phải tránh sự b́nh
đẳng giữa con người ? Cho là cơ chế
quá tŕnh đă được mô tả đúng, đâu là
động cơ của sự cố gắng lớn lao có
kế hoạch kỹ càng ḥng làm ngưng đọng
lịch sử tại một đặc điểm
thời gian ấy ?
Đây chúng ta đụng
phải điều bí mật trọng yếu. Như chúng
ta đă thấy, tính thần bí của Đảng, và trên
hết của Đảng Trong, tùy thuộc ư đôi.
Nhưng nằm sâu hơn ở dưới là động cơ
nguyên thủy, cái bản năng không bao giờ bị
đặt thành vấn đề đă đầu tiên
đưa đến sự giành quyền và mang lại ư
đôi, Cảnh Sát Tư Tưởng, chiến tranh liên
tục, và các tṛ tạp nhạp cần thiết khác.
Động cơ đó thật ra là...
Winston chợt nhận thức sự im lặng như người
bỗng để ư đến một âm thanh mới. Anh có
cảm tưởng Julia im tiếng từ khá lâu. Nàng
nằm nghiêng, cởi trần từ eo trở lên, má
gối trên tay, một lọn tóc đen phủ x̣a
xuống mắt. Ngực nàng phập phồng chậm
chạp và đều đặn.
"Julia."
Không có tiếng trả
lời.
"Julia, em c̣n thức
không ?"
Không có trả lời.
Nàng đă ngủ. Anh đóng sách lại, đặt nó
cẩn thận trên sàn, nằm xuống và kéo khăn
phủ giường lên trên hai người.
Anh
nghĩ rằng anh
vẫn chưa biết điều bí mật cuối cùng là
ǵ. Anh hiểu như sao ; nhưng anh không hiểu tại
sao. Chương I cũng như chương III thực
ra không cho anh biết điều ǵ anh chưa biết, nó
chỉ hệ thống hóa sự hiểu biết sẵn có
của anh. Nhưng đọc nó xong anh hiểu rơ hơn trước
anh không điên. Thuộc về một thiểu số, dù
là một thiểu số có một người, không có
nghĩa là điên. Có sự thật và sự không
thật, và nếu ḿnh bám vào sự thật dù là
chống lại toàn thể thế giới, ḿnh không điên.
Một ánh vàng từ mặt trời xế tàn len qua
cửa sổ rớt xuống gối. Anh nhắm mắt
lại. Mặt trời trên mặt anh và tấm thân
mịn màng của cô gái sát người anh gây trong anh
một cảm giác mạnh mẽ, êm ru và tự tín. Anh
được an toàn, mọi sự tốt đẹp. Anh
vừa thiếp đi vừa lẩm bẩm : "Trí lành
mạnh không thuộc sự thống kê," với
cảm tưởng nhận xét này chứa đựng
một đạo lư xâu xa.
Khi anh tỉnh dậy anh có cảm giác anh đă ngủ
một giấc dài, nhưng một cái liếc vào chiếc
đồng hồ cũ kỹ cho anh biết mới có hai mươi
giờ ba mươi. Anh nằm ngủ gà một lúc ;
rồi tiếng hát to vang thường lệ vọng
từ dưới sân lên :
Bài hát lẩm cẩm có vẻ vẫn được ưa
chuộng. Vẫn nghe thấy nó khắp nơi. Nó sống
lâu hơn bản Hận Ca. Julia thức dạy với
tiếng hát, khoan khoái vươn ḿnh rồi ra khỏi giường.
"Em đói," nàng
nói. "Ḿnh làm thêm một ít cà phê đi. Chết
chửa ? Bếp tắt rồi và nước lạnh
nguyên." Nàng nhấc bếp dầu lên lắc. "Hết
dầu bên trong."
"Anh nghĩ thường
ḿnh có thể xin già Charrington một ít."
"Lạ là em đă
canh chừng cho bếp đầy dầu. Em phải mặc
áo quần vào mới được," nàng nói tiếp.
"Trời có vẻ lạnh hơn."
Winston
cũng đứng
dậy mặc quần áo. Tiếng hát không biết mệt
tiếp tục :
Anh vừa buộc thắt lưng trên bộ áo liền
quần vừa bước ra cửa sổ. Mặt trời
chắc đă lặn sau dăy nhà ; nó không c̣n chiếu
xuống sân nữa. Các ḥn đá lát ướt như
thể chúng đă được lau rửa, và anh có
cảm tưởng trời cũng đă được
rửa v́ màu xanh giữa các ống khói quá tươi
lạt. Người đàn bà đi qua đi lại không
thấy mệt, miệng hết ngậm lại há, khi hát
khi im, lấy tă phơi thêm, càng lúc càng nhiều. Anh
tự hỏi không hiểu bà ta giặt giũ v́ kế
sinh nhai hay bà chỉ làm nô lệ cho hai ba chục đứa
cháu nhỏ. Julia đă đến cạnh anh, cả hai như
bị thôi miên nh́n xuống thân h́nh vạm vỡ dưới
sân. Ngó ngựi đàn bà trong giáng điệu đặc
biệt của bà ta, với đôi cánh tay ụ giương
lên phía dây tă, với bộ mông lực lưỡng như
mông ngựa, lần đầu tiên anh bỗng thấy bà
ta đẹp. Trước đây anh chưa bao giờ nghĩ
rằng thân thể một người đàn bà cỡ năm
mươi tuổi, sồ sề tới mức quái đản
v́ sinh đẻ, bị chai cứng và sần sùi v́
việc nặng đến độ phát thô tận
thớ giống như một củ cải quá chín,
lại có thể đẹp được. Nhưng sự
thể là vậy, vả lại, anh nghĩ, sao lại không
được ? Tấm thân rắn chắc không
đường cong y như một tảng đá hoa cương,
và làn da ráp đỏ, so với thân h́nh của một cô
gái tựa như quả cây hoa hồng sánh với hoa
hồng. Tại sao lại coi quả kém hoa ?
"Bà ta đẹp,"
anh lẩm bẩm.
"Dễ chừng mông
bà ta đo được một thước," Julia nói.
"Đấy là
kiểu sắc đẹp của bà ta," Winston đáp.
Anh
ṿng tay dễ dàng
quanh tấm eo mảnh dẻ của Julia. Từ háng tới
đầu gối, hông của nàng cọ sát người
anh. Từ thân thể họ sẽ không nẩy ra một
đứa nhỏ nào. Đó là điều đáng kể
họ không bao giờ làm được. Họ chỉ có
thể truyền điều bí mật bằng lời nói,
từ tâm trí này qua tâm trí kia. Người đàn bà dưới
sân không có tâm trí, bà ta chỉ có đôi cánh tay vạm
vỡ, một trái tim đầy nhiệt t́nh, và một cái
bụng mắn đẻ. Anh tự hỏi bà ta đă sinh
được bao nhiêu con. Dễ thường mười
năm người. Bà ta đă từng có kỳ thanh
sắc khai hoa nhất thời của đóa hồng
dại, trong khoảng một năm, xong bà ta đă
bỗng ph́nh lên như một trái cây màu mỡ, và đâm
cứng đỏ thô, để rồi đời sống
của bà toàn là giặt giũ, kỳ cọ, vá mạng,
bếp nước, quét dọn, lau chùi, gắn sửa,
cọ chải, giặt giũ, trước là cho con, sau là
cho cháu, suốt ba mươi năm liền. Rốt
cuộc bà ta vẫn c̣n hát. Ḷng tôn kính của anh đối
với bà lẫn trộn sao đó với cảnh trời
lạt không mây duỗi trên không gian vô tận sau các
ống khói. Kể cũng lạ khi nghĩ rằng trời
y hệt đối với mọi người, tại Âu
Á hay ở Đông Á cũng như tại nơi đây. Và
dưới bàu trời, dân chúng cũng thật y nhau --
khắp nơi, khắp thế giới, hàng trăm ngàn
triệu người như thế cả, những người
không biết đến sự hiện hữu của nhau,
bị ngăn cách nhau bởi bức tường thù
hận và dối trá, tuy gần giống nhau như lột
-- những người dân không bao giờ học nghĩ nhưng
tích trữ trong trong tim gan thớ thịt cái sức
mạnh sẽ có ngày đảo lộn thế giới.
Nếu có hy vọng, nó nằm nơi dân đen ! Không
cần đọc đoạn kết của quyển sách,
anh biết đó phải là lời ủy thác cuối cùng
của Goldstein. Tương lai thuộc về dân đen.
Liệu anh có chắc rằng, khi thời đến,
thế giới do họ xây dựng sẽ không xa lạ
đối với anh, Winston Smith, chẳng kém ǵ thế
giới của Đảng không ? Có chứ, v́ ít
nhất nó sẽ là một thế giới lành mạnh. Nơi
nào có sự b́nh đẳng, có thể có sự lành
mạnh. Chẳng sớm th́ muộn, chuyện đó
sẽ xảy ra, sức mạnh sẽ biến thành ư
thức. Dân đen bất tử, không thể nghi ngờ
điều này được khi nh́n vào dáng vóc kiên cường
dưới sân. Tận cùng giờ thức tỉnh của
dân đen sẽ đến. Và cho tới khi đó, dù
phải một ngh́n năm nữa, họ sẽ giữ ḿnh
sống sót chống mọi vận rủi, như thể
chim muông, truyền cho nhau từ thân xác này qua thân xác kia
nguồn sinh lực mà Đảng không dự chia được
và cũng không sao diệt nổi.
"Em c̣n nhớ con chim
chích cḥe hát cho chúng ḿnh hôm đầu tiên đó không,
tại ven rừng ấy ?" anh hỏi.
"Nó không hát cho chúng
ḿnh," Julia căi. "Nó hát để tự chiều nó.
Không phải thế nữa. Nó chỉ hát, thế thôi."
Chim
hát, dân đen hát,
Đảng không hát. Khắp quanh thế giới, Tại Luân
Đôn hay Nữu Ước, ở Phi Châu hay Ba Tây, tại
những đất cấm bí ẩn bên kia biên giới, ngoài
phố Ba Lê hay Bá Linh, tại các làng trên đồng
bằng Nga vô tận, trong các tiệm tạp hóa ở Trung
Hoa và Nhật Bản -- khắp nơi đứng sững
một bóng người vững chắc không thể
khắc phục được, một h́nh thù trở thành
quái dị v́ làm lụng và thai nghén, cực nhọc
từ ngày sinh đến lúc chết, nhưng vẫn hát.
Từ những bộ hông mạnh mẽ đó một
giống người có ư thức sẽ có ngày ra đời.
Ḿnh là kẻ chết, tương lai thuộc về họ.
Nhưng ḿnh có thể tham dự tương lai đó
nếu ḿnh biết bảo tồn tinh thần như họ
duy tŕ thể xác, và lưu truyền án lư mật bảo
rằng hai cộng hai là bốn.
"Ḿnh là kẻ
chết," anh nói.
"Minh là kẻ
chết," Julia ngoan ngoăn lặp lại.
"Các ngươi là
kẻ chết," một giọng đanh thép cất
tiếng đằng sau họ.
Họ nhẩy xa nhau.
Ruột Winston như băng lại. Anh có thể thấy ḷng
trắng bao quanh mống mắt Julia. Mặt nàng quay vàng
sữa. Vết phấn đỏ c̣n điểm má nàng
bật hẳn lên làm như chúng không dính líu ǵ với làn
da ở dưới.
"Các ngươi là
kẻ chết," giọng đanh thép nhắc lại.
"Ở đằng
sau bức tranh," Julia nói như thở.
"Ở đằng
sau bức tranh," giọng kia nhái. "Đứng yên
tại chỗ ! Không được đụng đậy
trước khi có lệnh !"
Sự đă đến,
cuối cùng sự đă đến ! Họ không
thể làm ǵ được hơn là đứng nh́n vào
mặt nhau. Chạy trốn, ra khỏi nhà trước khi
quá muộn -- không một ư nào tương tự hiện
qua óc họ. Không thể tưởng tới việc
bất tuân giọng đanh thép từ tường vọng
ra. Có tiếng cách như thể một chốt cửa
bị vặn ngược và có tiếng kính vỡ.
Bức tranh rớt xuống đất để lộ ra
chiếc máy truyền h́nh đằng sau.
"Bây giờ chúng nh́n
thấy được ḿnh," Julia nói.
"Bây giờ chúng ta
nh́n thấy được các ngươi," giọng nói
tiếp lời. "Đứng ra giữa pḥng. Xây lưng
lại nhau. Khoanh tay sau đầu. Không được
đụng vào nhau."
Họ không đụng
vào nhau, nhưng anh tuồng như cảm thấy được
sự run rẩy của thân thể Julia. Hay có lẽ đó
chỉ là sự run rẩy của chính người anh. Anh
có đủ sức ngăn được răng anh
khỏi đánh lập cập, nhưng anh không kiềm
chế nổi đầu gối anh. Có tiếng giầy
ống th́nh thịch ở dưới, trong nhà và ngoài nhà.
Sân h́nh như đầy người. Có vật ǵ bị
kéo lê trên đá lát. Tiếng hát của người đàn
bà đă vụt tắt. Có tiếng lăn ầm dài như
thể chậu giặt bị quẳng qua sân, rồi có
tiếng giận dữ hỗn độn kết cục
bằng một tiếng kêu đau đớn.
"Nhà bị vây,"
Winston nói.
"Nhà bị vây,"
giọng nói lặp lại.
Anh
nghe thấy Julia
nghiến răng lại : "Em nghĩ ḿnh nên từ
giă nhau đây cho phải," nàng nói.
"Các ngươi
từ giă nhau đi là đúng," giọng nói tiếp
lời. Rồi một giọng nói khác hẳn, một
giọng nhẹ, có học, mà Winston có cảm tưởng
đă nghe được trước đây, xen vào ; "Và
nhân tiện, đương lúc c̣n câu chuyện, "Đây
là cây nến để đưa anh đi ngủ, đây
là thanh đao để chém cái đầu anh." !"
Có vật ǵ đập
vào giường sau lưng Winston. Đầu một cái
thang được ném qua cửa sổ đă chạm
phải khung giường. Có người chèo qua lối
cửa sổ. Có tiếng giầy ống giẫm trên
cầu thang. Căn pḥng đầy đàn ông lực lưỡng
mặc đồng phục đen, chân đi giầy
ống bịt sắt, tay cầm dùi cui.
Winston
không c̣n run
rẩy nữa. Ngay mắt, anh cũng không chớp mấy.
Chỉ có một điều hệ trọng : giữ b́nh
tĩnh, giữ b́nh tĩnh, không cho chúng cớ để
đánh ḿnh ! Một tên có bộ quai hàm nhẵn
của vơ sĩ quyền thuật trên đó cái miệng
chỉ là vết gạch, ra đứng trước
mặt anh, lắc lư dùi cui giữa ngón tay cái và ngón
tay trỏ với một vẻ đăm chiêu. Winston
bắt gặp mắt hắn. Cảm tưởng như
ở truồng, với tay để sau đầu và
mặt mũi cùng thân thể phơi ra đó, gần như
quá sức chịu đựng. Tên vơ sĩ lè đầu
một cái lưỡi trắng ra liếm chỗ đáng
nhẽ là môi hắn, rồi bước qua mặt anh. Có
một tiếng ầm khác. Có kẻ đă nhấc tấm
chặn giấy thủy tinh lên khỏi bàn và đập nó
tan thành mảnh trên đá ḷ.
Mảnh san hô, một
vật uốn hồng nhỏ bé như một nụ
hồng bằng đường gắn trên bánh ngọt, lăn
qua tấm chùi chân. Nó nhỏ bé làm sao, Winston nghĩ, nó
vẫn nhỏ bé làm sao ! Có tiếng hổn hển và
tiếng đấm đằng sau anh, và anh bị đá
mạnh vào đầu gối suưt mất thăng bằng.
Một tên đàn ông đă đấm vào nhật tùng
Julia, làm nàng gấp người lại làm hai như
một cái thước kẻ bỏ túi. Nàng dăy dụa trên
sàn cố lấy lại hơi. Winston không dám quay đầu
lại dù chỉ một ly nhỏ, nhưng thỉnh
thoảng gương mặt tái mét hổn hển của nàng
hiện trong góc thị giác anh. Ngay trong cơn hăi hùng, cơ
hồ anh cảm thấy đau đớn trong chính người
anh, nhưng nỗi đau chết điếng không khẩn
cấp bằng sự tranh đấu lấy lại hơi.
Anh biết thế là thế nào ; nỗi đau đớn
ghê gớm dồn dập vẫn nằm đó nhưng chưa
được thấy đau v́ trước hết
phải thở được đă. Rồi có hai tên
đàn ông nắm vai và đầu gối nàng kéo nàng
dậy, lôi nàng như một cái bị ra khỏi pḥng.
Winston thoáng thấy mặt nàng rũ xuống, vàng và
quẹo lại, đôi mắt nhắm nghiền, vết
phấn đỏ vẫn nguyên trên má, và đó là h́nh
ảnh cuối cùng của nàng mà anh được
thấy.
Anh đứng chết
lặng. Chưa ai đánh anh. Nhiều tư tưởng
tự động nhưng h́nh như hoàn toàn vô tích
sự bắt đầu xuyên qua óc anh. Anh tự hỏi không
biết chúng đă bắt ông Charrington chưa. Anh tự
hỏi chúng đă đối xử ra sao với người
đàn bà ngoài sân. Anh thấy buồn đi tiểu
hết sức, và hơi lạ v́ anh mới đái hai ba
giờ trước. Anh để ư thấy đồng
hồ trên bàn sưởi chỉ vào số chín, có nghĩa
là hai mươi mốt giờ. Nhưng ánh sáng có vẻ
quá mạnh. Ánh sáng không giảm độ vào lúc hai mươi
mốt giờ vào một buổi chiều tháng tám sao ?
Anh tự hỏi liệu anh và Julia đă nhầm giờ chăng
-- đă ngủ cả thời gian kim đồng hồ quay
tṛn và nghĩ rằng bây giờ là hai mươi mốt
giờ trong khi thực ra đă là tám giờ ba mươi
sáng ngày hôm sau. Nhưng anh không nghĩ xa hơn. Không thú
vị ǵ.
Có tiếng bước
khác, nhẹ hơn, trong lối đi. Ông Charrington vào pḥng.
Bộ điệu của mấy tên đàn ông mặc
đồng phục đen bỗng thuần hơn. Cũng có
cái ǵ thay đổi trong dáng điệu của ông
Charrington. Mắt ông nh́n vào những mảnh chặn
giấy thủy tinh.
"Nhặt các mảnh
kia lên !" ông nói sẵng.