Từ một cuối ngơ nào đó mùi cà phê rang -- cà phê
thật, không phải cà phê Chiến Thắng -- phảng
phất bay ra ngoài phố. Winston bất giác dừng chân.
Trong độ hai giây, anh trở về thế giới
đă gần đi vào quên lăng của thời thơ
ấu. Song một cánh cửa đập mạnh, cắt
đứt mùi thơm như thể nó là một tiếng
động.
Anh đâ thả bách
bộ nhiều cây số trên vỉa hè, và chứng loét giăn
tĩnh mạch đang nhói lên. Lần này là lần
thứ hai trong ba tuần anh trốn phiên họp chiều
tại Trung Tâm Cộng Đồng : một hành động
táo bạo khi biết chắc sự hiện diện
tại Trung Tâm được kiểm soát kỹ càng. Trên
nguyên tắc, Đảng viên không có giờ rảnh, và không
bao giờ được ở một ḿnh ngoài giờ
ngủ. Thông lệ là khi không làm việc, không ăn hay không
ngủ, Đảng viên phải tham gia một cuộc
giải trí cộng đồng : làm bất cứ
việc ǵ ám thị một sự ham thích cảnh cô
đơn, dù là tản bộ một ḿnh, bao giờ cũng
khá nguy hiểm. Ngôn mới có chữ chỉ điều
ấy : ḿnh sống, có nghĩa là cá nhân
chủ nghĩa và tính kỳ quặc. Nhưng chiều nay
khi ra khỏi Bộ, hương khí tháng Tư đă
quyến rũ anh. Trời xanh ấm như chưa từng
thấy năm nay, và bỗng nhiên anh cảm thấy như
không thể chịu nổi phiên họp chiều dài
dẵng ồn ào tại Trung Tâm, những tṛ chơi chán
ngắt, các bài diễn văn, cũng như t́nh đồng
chí cọt kẹt được rượu gin thoa mỡ.
Bốc đồng anh tránh trạm xe buưt và lang thang trong
đồ trận Luân Đôn, thoạt đầu ở vùng
nam, sau sang vùng đông, rồi lại lên vùng bắc,
lạc ḿnh trong các đường phố lạ, không
mấy để ư đến phương hướng
đang theo.
"Nếu có hy
vọng, nó phải nằm nơi dân đen", anh đă
viết vậy trong nhật kư. Câu này ám ảnh anh, cái câu
quả quyết một sự thật thần bí và một
sự phi lư sờ sờ. Anh đang ở đâu đó,
trong xóm nhà nhơ nhớp mầu nâu mạn đông
bắc nhà ga Thánh Pancras xưa. Anh đi trên một
đường phố lát sỏi có nhà hai tầng với
cửa đổ nghiêng nh́n thẳng ra hè, coi giống
ổ chuột lạ. Nhiều vũng nước bẩn
rải rác trên đường lát. Trong và ngoài cửa nhà
đen tối, dọc những ngơ ngang hẹp nhánh từ
hai bên đường phố, dân chúng đông lạ lùng,
hàng ngàn người -- con gái đương tuổi thanh
xuân với đôi môi son loè loẹt, con trai đuổi
theo con gái, đàn bà mập ph́nh núng nính cho thấy các cô
gái sẽ ra sao mười năm năm nữa, người
già khom lưng lê đôi chân bẹt, và trẻ con rách rưới
chân đất chơi đùa trong các vũng nước
để rồi tản mát khi mẹ chúng giận hét.
Đến một phần tư cửa sổ trông ra
phố bị găy và lấp ván. Phần đông dân chúng không
để ư đến Winston ; vài người ṭ ṃ dè
dặt nh́n anh. Có hai quái nữ với cánh tay đỏ
gạch khoanh trước áo tạp dề nói chuyện
với nhau ngoài một ngưỡng cửa. Khi lại
gần họ Winston nghe lỏm được vài mẩu câu
chuyện :
""Phải,"
tui bảo chị ta, "vậy phải lắm," tui
bảo thế. "Nhưng nếu chị ở cảnh tui
chị cũng làm như tui vậy thôi. Chê th́ dễ,"
tui bảo thế, "nhưng chị không mắc vào
cảnh như tui.""
"Ừ," người
kia nói, "đúng thế. Đúng là thế đó."
Giọng nói the thé
vụt ngưng. Hai người đàn bà lẳng lặng
nḥm anh như thù địch khi anh qua mặt họ. Đúng
ra, đấy không phải là một thái độ
hiềm nghịch, mà chỉ là một phản ứng
thận trọng, căng thẳng nhất thời, kiểu
như trước sự băng qua của một con thú không
quen thuộc. Bộ áo liền quần của Đảng
không thể là một cảnh tượng b́nh thường
trên một đường phố như thế này. Thât
thế, trừ phi có nhiệm vụ rơ ràng, bị bắt
gặp tại những nơi như chốn đây là
một điều không nên. Đội tuần tra có
thể chặn giữ bạn nếu rủi bạn gặp
họ : "Đồng chí cho tôi xem giấy được
không ? Đồng chí làm ǵ nơi đây ? Đồng
chí rời sở hồi mấy giờ ? Đây có
phải là lối về nhà b́nh thường của đồng
chí không ?" -- và cứ như thế. Kể th́ không
hề có luật chống sự theo lối khác lạ
về nhà ; nhưng thế đủ khiến bạn
bị chú ư đến nếu chuyện đến tai
Cảnh Sát Tư Tưởng.
Th́nh ĺnh cả phố
sôi sục. Có tiếng hét báo động xuất phát
từ khắp nơi. Dân chúng phóng qua cửa về nhà như
thỏ chạy. Một thiếu phụ vọt khỏi
một ngưỡng cửa trước mặt Winston, túm
lấy một đứa bé đang chơi trong vũng nước,
phủ nó trong tạp dề rồi bay trở lại
về nhà, mọi tác động gom nhanh vào một. Đồng
thời một gă mặc một bộ đồ đen nhăn
nhúm nhô ḿnh từ một ngơ ngang, vừa chạy về phía
Winston vừa hớt ha hớt hải chỉ tay lên trời :
"Máy hơi !"
anh ta hét lên. "Coi chừng, thầy nó ! Pằng trên
đầu ! Nằm xuống nhanh !"
"Máy hơi" là tên
dân đen đặt cho bom lửa, không rơ v́ sao. Winston
vội nhào mặt xuống đất. Dân đen gần như
không bao giờ nhầm khi ra báo hiệu về bom. H́nh như
họ có một linh tính báo cho họ biết trước
vài giây sự kế cận của bom lửa, mặc
dầu bom lửa được coi như bay nhanh hơn âm
thanh. Winston khoanh tay lên đầu. Một tiếng ầm
vang làm như cuỗm tung hè lên ; hàng chùm vật nhẹ mưa
lách tách trên lưng anh. Khi đứng dậy anh thấy ḿnh
bị bao phủ bởi vụn kính rơi từ cửa
sổ gần nhất.
Anh
tiếp tục
rảo bước. Trái bom đă phá hủy một khóm nhà
trên đầu phố cách đây hai trăm thước.
Một luồng khói đen treo giữa trời, và dưới
đất một đám mây bụi thạch cao bao trùm
một đám người đă họp quanh đống
phế tích. Có một sấp nhỏ thạch cao nằm trước
mặt anh, và giữa sấp anh thấy một vết
đỏ tươi. Khi lại gần, anh nhận ra đó
là một bàn tay người bị cắt ngang cổ. Ngoài
cái đầu cụt đẫm máu, bàn tay tái mét trông như
một vật đúc bằng thạch cao.
Anh đá vật đó
vào cống rồi rẽ xuống một ngơ ngang để
tránh đám đông. Ba bốn phút sau anh ra khỏi vùng
bị bỏ bom, và đời sống lúc nhúc bần
tiện của phố phường tiếp tục như
không có ǵ vừa xảy ra. Đă gần hai mươi
giờ, và các quán nước được dân đen lui
tới (mà họ gọi là "pớp") đông
nghẹt khách. Từ những cửa xoay xấu xí, không ngưng
đóng mở, bay ra một mùi nước tiểu, mùn cưa
và bia chua. Tại một góc do một mặt nhà nhô ra h́nh
thành có ba gă đứng sát nhau ; người đứng
giữa cầm một tờ báo gấp trong khi hai người
kia đọc qua vai anh ta. Ngay khi chưa đủ ở
gần để nh́n nét mặt họ, Winston đă
thấy sự mải mê hiện trên toàn dáng điệu
của họ. Hiển nhiên họ đang đọc
một tin quan trọng. Anh vượt họ được
vài bước th́ bỗng dưng nhóm người tan ră và
hai trong ba người căi nhau to. Trong một lúc họ suưt
ra tay với nhau.
"Mẹ kiếp, mày
không nghe tao nói hả ? Tao bảo mày không có số nào
tận cùng bằng số bảy trúng số từ mười
bốn tháng nay !"
"Có, có số trúng mà !"
"Không, không có !
Ở nhà tao có ghi cả thảy số trúng từ hơn
hai năm nay. Tao chép lại đều đặn như
đồng hồ. Và tao bảo mày, không có số nào
tận cùng bằng số bảy --"
"Có, có một
số bảy trúng ! Tao có thể đọc gần
hết cho mày con số mắc dịch đó. Nó tận cùng
bằng bốn không bảy. Đó vào lúc tháng Hai --
tuần thứ hai tháng Hai."
"Tháng Hai cái con bà mày !
Tao ghi hết trên giấy trắng mực đen. Và tao
bảo mày, không có số nào --"
"Ôi, câm miệng
đi !", người thứ ba thốt.
Họ nói về Sổ
Số. Winston ngoảnh lại nh́n họ khi quá họ ba mươi
thước. Họ vẫn c̣n căi nhau, gương mặt
bừng bừng hăng say. Sổ Số với những
số tiền giải khổng lồ hàng tuần, là
chuyện thời sự độc nhất được
dân đen quan tâm đến. Chắc hẳn hàng triệu dân
đen coi Sổ Số như lẽ sống chính yếu
nếu không độc nhất của họ. Nó là
nguồn vui, là thú đam mê, là thuốc an thần, là
chất kích thích trí óc của họ. Khi có sựliên quan
tới Sổ Số, ngay những người không biết
đọc biết viết ǵ cũng h́nh như có tài tính
toán rắc rối hay trí nhớ dai kỳ lạ. Có cả
bầy người kiếm cơm nhờ bán phương
thức, dự toán và bùa hên. Winston không liên can ǵ đến
sự điều hành Sổ Số do Bộ Sung Túc đảm
nhận, nhưng anh biết rằng (mà ai trong Đảng cũng
biết) các giải trúng phần đông là giải hăo.
Thực ra chỉ có vài món tiền nhỏ được
phát, những người trúng giải lớn chỉ là người
bịa. V́ không có sự thông tín qua lại thực sự
giữa các vùng Đại Dương, mạo chuyện trúng
giải không khó khăn ǵ.
Nhưng nếu có hy
vọng, nó phải nằm nơi dân đen. Phải bám vào
điều này. Khi đọc câu ấy lên, nó có vẻ
hữu lư : nhưng khi nh́n vào những người qua
đường trên vỉa hè, câu đó trở thành
một lời nguyện tin. Con phố mà anh rẽ vào
chạy xuống đồi. Anh có cảm tưởng đă
tới khu ngoại ô này trước đây, và nhớ có
một con đường lớn không xa chốn này.
Từ đâu đó phía đằng trước có
tiềng kêu ḥ inh ỏi. Con phố quẹo theo một góc
nhọn và tận cùng bằng một cầu thang dẫn
xuống một ngơ trũng có vài sập hàng bán rau héo. Bây
giờ th́ Winston nhớ ra chỗ ḿnh đang ở. Ngơ này
dẫn đến phố lớn, và tại phố ngang
đầu tiên, ở mạn dưới, cách đây không
quá năm phút, là cái tiệm đồ cũ nơi anh
đă mua cuốn vở trắng nay là nhật kư của
anh. Và tại một tiệm bán giấy không xa, anh đă
mua cái bút và lọ mực anh dùng.
Anh
dừng chân một lúc
trên đầu cầu thang. Bên kia ngơ có một pớp
nhỏ tồi tàn có cửa sổ tưởng như
bị băng phủ hóa ra chỉ bị bụi trùm.
Một ông lăo già khụm nhưng hảo hoạt, có râu mép
trắng dựng lên như râu tôm, ẩy cửa xoay vào
trong quán. Đương đứng nh́n, Winston bỗng nghĩ
rằng ông già lên tám mươi tuổi ít nhất, nên
đă đứng tuổi khi Cách Mạng xảy ra. Ông ta và
vài người khác là những mối liên lạc hiện
hữu cuối cùng với thế giới tư bản.
Ngay trong Đảng không có nhiều người được
đào luyện tư tưởng trước Cách Mạng.
Thế hệ cũ gần như đă bị quét sạch
trong các cuộc thanh trừ lớn vào những năm năm
mươi sáu mươi, và mấy người sống sót
đă hoàn toàn đầu hàng tinh thần từ lâu v́
sợ hăi. Nếu có người c̣n sống dám kể
lại một cách trung thực t́nh trạng hồi đầu
thế kỷ, người đó phải là dân đen.
Bỗng dưng đoạn sách sử mà anh đă chép trong
nhật kư hiện lại trong óc Winston, và một động
lực điên rồ xâm nhập lấy anh. Anh phải vào
trong pớp, anh phải làm quen với ông lăo và hỏi han
ông ta. Anh sẽ hỏi ông ta : "Xin cụ cho biết
đời sống của cụ khi cụ c̣n nhỏ.
Thời đó ra sao ? Thời đó sự thể khá
hay tệ hơn bây giờ ?"
Một cách vội vàng
để khỏi có th́ giờ sợ hăi, anh đi
xuống cầu thang băng qua ngơ hẻm. Đương
nhiên, đây là một hành động điên khùng. Như
thường lệ, không có luật lệ rơ ràng cấm
sự nói chuyện với dân đen và lui tới pớp
của họ, nhưng đó là một hành động quá
bất thường, thế nào cũng bị chú ư đến.
Nếu đội tuần tra xuất hiện, anh có thể
viện cớ là bỗng thấy khó ở, nhưng họ
sẽ khó ḷng tin anh. Anh đẩy cửa mở toang, và
một mùi bia chua ghê gớm như phó mát đập vào mũi
anh. Khi anh vào, tiếng ồn giảm xuống nửa âm
độ. Đằng sau lưng anh, anh có thể cảm
thấy mọi người nh́n soi mói vào bộ áo
liền quần xanh của anh. Một ván ném phi tiêu đang
chơi dở bên cuối pḥng ngừng lại chừng ba mươi
giây. Ông lăo mà anh theo dơi đứng tại quầy rượu,
căi vă ǵ đó với người hầu rượu,
một thanh niên to lớn mập mạp có mũi quặp và
cẳng tay kếch xù. Một nhóm người khác cầm
cốc đứng quanh nh́n cảnh tượng.
"Tôi hỏi anh
thế là lễ phép lắm rồi, đúng không ?",
ông lăo vừa nói vừa ưỡn thẳng vai lại
một cách hùng hổ. " Anh bảo tôi không có hũ nào
một panh trong cả cái ổ rượu chết tiệt
này là cái thứ ǵ ?"
"Nhưng trời
đất quỷ thần, nào ai biết một panh là cái
thớ ǵ ?", người hầu rượu nói, thân
ḿnh đưa về phía trước trong khi ngón tay t́ trên
quầy hàng.
"Coi ḱa ! Hắn
nhận ḿnh là người hầu rượu mà không
biết một panh là ǵ ! Sao, một panh là một
nửa ca và có bốn ca trong một lon. Lần sau dễ
chừng phải dạy i tờ cho anh nữa !"
"Không nghe mấy
thứ đó bao giờ," người hầu rượu
trả lời cộc lốc. "Lít với nửa lít,
chỉ bán có thế. Cốc ở trên giá trước
mặt ông ấy !"
"Tôi muốn một
panh cơ," ông lăo khăng khăng. "Anh rót cho tôi
một panh được mà, dễ lắm. Hồi tụi
tôi c̣n trẻ không có lít mắc dịch ǵ ráo !"
"Hồi ông c̣n
trẻ tụi tôi sống cả trên cḥm cây," người
hầu rượu vừa nói vừa liếc nh́n các khách
hàng khác.
Một tiếng cười
ầm vang lên và sự khó chịu gây ra bởi sự
xuất hiện của Winston h́nh như biến mất. Gương
mặt lổm chổm lông trắng của ông lăo đỏ
hồng lên. Miệng lẩm bẩm, ông ta quay người
đi, và đụng đầu vào Winston. Winston khẽ
cầm tay ông.
"Xin phép cụ cho tôi
mời cụ một cốc rượu," anh nói.
"Anh mới thật là
người," ông lăo vừa nói vừa ưỡn
thẳng vai lại. Ông ta hầu như không để ư
đến bộ áo liền quần xanh của Winston. "Một
panh !" ông ta nói tiếp một cách khiêu khích
với người hầu rượu. "Panh bia !"
Người hầu rượu
rót hai nửa lít bia nâu thẫm vào hai cốc lớn đă
được tráng trong một chậu để ở dưới
quầy. Bia là thứ giải khát độc nhất
được bán trong pớp dành cho dân đen. Dân đen
được coi như không uống rượu gin,
mặc dầu trên thực tế họ muốn kiếm gin
cũng dễ. Tṛ chơi ném phi tiêu đă hào hứng
trở lại, và nhóm người bao quanh quầy đă
bắt đầu nói chuyện về sổ số. Lúc này
sự hiện diện của Winston đă bị bỏ quên.
Có một bàn gỗ trắng kê dưới cửa sổ
cho phép anh và ông lăo nói chuyện mà không sợ bị nghe
lỏm. Cư xử như vậy hết sức nguy
hiểm, nhưng dù thế nào đi nữa, trong quán không
có máy truyền h́nh, một điều anh đă kiểm
chắc lúc thoạt vào.
"Hắn rót cho tôi
một panh mới phải," ông lăo vừa làu nhàu
vừa đặt cốc ngồi xuống. "Một
nửa lít không đủ. Không thấm. Mà một lít th́
quá nhiều. Làm bọng đái tôi chảy ḍng. Không
kể giá cả."
"Chắc cụ đă
chứng kiến nhiều sự thay đổi từ
thuở thiếu thời," Winston mớm hỏi.
Đôi mắt xanh
lợt của ông lăo đưa từ bảng bia phi tiêu
đến quầy rượu, rồi từ quầy rượu
tới pḥng vệ sinh cho phái nam, coi như các sự thay
đổi đă xảy ra trong quán.
Sau
cùng ông nói :
"Bia trước đây ngon hơn ! Và rẻ hơn !
Hồi tôi c̣n trẻ, bia nhẹ -- mà chúng tôi gọi là la
ve -- có bốn xu một panh. Đó là trước khi có
chiến tranh, cố nhiên."
"Chiến tranh nào cơ
ạ ?" Winston hỏi.
"Các chiến tranh,"
ông lăo mập mờ đáp. Ông bỏ kính ra, ưỡn
thẳng vai lại. "Chúc anh sức khỏe dồi dào !"
Trái cổ nhọn
của ông ta lên xuống thật nhanh trong cuống họng
hẹp, và bia bị nuốt biến. Winston tới quầy
rượu rồi trở lại bàn với hai nửa lít
nữa. Ông lăo hầu như quên thành kiến đối
với sự uống cả lít.
"Cụ nhiều
tuổi hơn tôi nhiều," Winston nói. "Chắc
cụ đă trưởng thành khi tôi chưa chào đời.
Có lẽ cụ nhớ ngày xưa ra sao khi chưa xảy ra
Cách Mạng. Những người đồng lứa
với tôi thực sự không biết ǵ về thời
đó. Chúng tôi chỉ biết qua sách vở, mà những
điều ghi trong sách chửa chắc đúng. Tôi mong
biết ư kiến cụ.Sách sử bảo đời
sống trước Cách Mạng khác hẳn bây giờ.
Hồi đó, sự áp bức, bất công và nghèo nàn ghê
gớm quá sức tưởng tượng của con người.
Tại Luân Đôn này, đại quần chúng không bao
giờ có đủ ăn từ lúc sinh ra cho đến lúc
chết. Một nửa dân số không có cả giầy
ống để đi. Họ làm việc mười hai
tiếng một ngày, bỏ học khi lên chín, ngủ
cả mười người trong một pḥng. Trong khi
đó, có một thiểu số, chỉ vài ngàn người
-- gọi là dân tư bản -- giàu sang thế lực.
Họ là chủ hữu của mọi thứ có thể có
được. Họ sống trong những ṭa nhà rộng
răi và lộng lẫy với hàng ba chục đầy
tớ, họ di chuyển trong xe hơi và xe tư mă,
họ uống ruợu xâm banh, họ đội mũ cao thành
--"
Ông lăo bỗng sáng
mặt lên.
"Mũ cao thành !"
ông ta nói. "Lạ sao anh lại nhắc tới nó.
Mới hôm qua tôi cũng nghĩ đến vật này. Tôi
không hiểu tại sao. Nghĩ đến, thế thôi. Sao
bao năm rồi tôi không thấy nó. Nó biến đâu
mất ấy. Lần cuối tôi đội nó là bữa tôi
đưa đám ma chị dâu tôi. Và bữa đó -- nhưng
tôi không nhớ rơ ngày -- vào khoảng năm mươi năm
trước. Cố nhiên, anh cũng hiểu, mũ ấy tôi
thuê đặc biệt cho hôm đó."
"Chuyện mũ cao
thành không quan trọng lắm," Winston kiên nhẫn nói.
"Điều đáng kể là dân tư bản kia --
họ và số luật sư, thầy tu, vân vân, sống bám
vào họ -- thời đó làm chúa tể thế giới.
Mọi sự chỉ có trên đời để phục
vụ họ. Các cụ -- thường dân và dân lao động
-- làm nô lệ cho họ. Họ muốn làm ǵ các cụ th́
làm. Họ có thể chuyển các cụ xuống tàu như
thể một đàn ḅ sang Gia Nă Đại. Họ có
thể ngủ với con gái các cụ nếu họ
muốn. Họ có thể ra lệnh quật các cụ
với một cái gọi là roi chín đuôi. Các cụ
phải ngả mũ khi qua mặt họ. Dân tư bản
nào cũng có một bầy lâu la đi theo --"
Mặt ông lăo lại sáng
lên.
"Lâu la !" ông
ta nói. "Nè, đă từ lâu tôi không nghe thấy
tiếng này ! Lâu la ! Tiếng quen thuộc đó làm
tôi trở về xưa, thật đó. Tôi nhớ --
ồ, hàng bao năm trước -- tôi thường ra công
viên Hyde vào chiều chủ nhật để nghe mấy
trự diễn thuyết. Đội quân Cưú thế, dân
Công giáo, dân Do Thái, dân Ấn Độ -- có đủ
loại người. Có một gă -- nhưng tôi không
nhớ tên hắn, đúng là một kẻ ăn nói hùng
hồn. Hắn không nhẹ miệng chút nào. "Đồ
lâu la !" hắn nói, "đồ làm lâu la cho
giới tư sản ! Đồ làm bồi cho giai
cấp cầm quyền !" Một tiếng rủa
nữa là quân ăn bám. Và c̣n linh cẩu nữa, hắn
quả có gọi chúng là đồ linh cẩu. Dĩ nhiên
anh cũng hiểu, chúng đây chỉ Đảng Lao Động."
Winston
có cảm tưởng
như ông ta nói gà mà anh nói vịt.
"Điều tôi
muốn nói là như thế này," anh bảo. "Cụ
có thấy cụ có nhiều tự do hơn hồi đó
không ? Cụ có được đối xử như
một con người hơn trước không ?
Thời xưa, dân giàu sang, dân trên chóp bục --"
"Thượng
nghị viện," ông lăo nhắc.
"Ừ th́ Thượng
nghị viện như cụ thích. Điều tôi muốn
hỏi là những người đó có xem các cụ như
kẻ dưới chỉ v́ họ giàu mà các cụ nghèo
không ? Chẳng hạn, có đúng các cụ phải thưa
"bẩm ngài" với họ và ngả mũ khi qua
mặt họ không ?"
Ông lăo có vẻ nghĩ
ngợi. Ông uống hết một phần tư cốc bia
trước khi đáp :
"Phải," ông ta
nói, "họ thích người ta ngả mũ chào họ.
Như để tỏ vẻ kính trọng. Chính tôi không
đồng ư, nhưng tôi đă làm thế khá thường.
Bắt buộc phải vậy, như anh có thể nói."
"Và thói thường
-- tôi chỉ nhắc lại những điều đọc
trong sách sử -- thói thường những người
đó và đầy tớ của họ có đẩy các
cụ ra khỏi hè cho các cụ ngă xuống rănh không ?"
"Một tên có đẩy
tôi xuống một lần," ông lăo nói. "Tôi c̣n
nhớ như thể là ngày hôm qua. Đó là đêm Đua
Thuyền -- đêm Đua Thuyền thường ồn ào
dễ sợ - và tôi đụng phải một gă trẻ
tuổi trên đường Shaftesbury. Hắn đúng là dân
sang -- áo sơ mi bảnh, mũ cao thành, áo khoác đen.
Hắn đi xiêu vẹo trên hè và tôi vô ư đụng
phải hắn. Hắn nói : "Bộ mày không
biết nh́n đường hả ?" hắn nói
thế đó. Tôi đáp lại : "Dễ chừng
anh tưởng anh mua được cái vỉa hè chết
tiệt này hả ?" Hắn bảo : "Tao
vặn cái cổ chó chết của mày bây giờ, nếu
mày láo lếu với tao." Tôi lại đáp : "Anh
say rồi. Để chốc tôi cho anh một trận."
Và anh tin tôi đi, hắn đưa tay lên ngực tôi
rồi xô tôi ngă xéo chút là tôi lăn dưới bánh xe buưt.
Nhưng hồi đó tôi c̣n trẻ, và tôi sắp cho
hắn nếm một quả th́ --"
Một cảm giác
bất lực xâm nhập Winston. Trí nhớ ông lăo chỉ
ghi một đống chi tiết vô nghĩa. Có thể tra
hỏi ông ta cả ngày mà chẳng thâu được
một tin tức đáng kể nào. Các sách sử của
Đảng biết đâu xác thực, theo kiểu của
chúng. Mà biết đâu chúng c̣n hoàn toàn xác thực. Anh
thử một lần chót :
"Có lẽ tôi không
tỏ rơ ư tôi," anh bảo. "Điều tôi muốn
nói như sau. Cụ đă sống thật lâu ; cụ
đă sống nửa đời trước Cách Mạng.
Tỷ như mới năm 1925 cụ đă trưởng thành.
Xin cụ cho biết, theo như cụ nhớ, đời
sống hồi năm 1925 khá hơn hay tệ hơn bây
giờ ? Nếu cụ được chọn, cụ thích
sống vào thời đó hay vào thời nay ?"
Ông lăo trầm ngâm nh́n
vào tấm bia phi tiêu. Ông uống cạn bia một cách
chậm răi hơn trước. Khi ông lên tiếng, ông ra
vẻ khoan dung hiền triết tuồng như rượu
bia làm ông chín chắn lên.
"Tôi biết anh đợi
tôi nói ǵ," ông ta bảo. "Anh đợi tôi nói tôi
thích trẻ tuổi trở lại. Phần đông người
ta, nếu có ai hỏi, đều đáp là thích được
trẻ hơn. Khi trẻ ḿnh có sức khỏe, sức
lực. Tới tuổi của tôi không ai được
mạnh cả. Tôi đau chân ác ôn và bọng đái
của tôi hành tôi dữ. Mỗi đêm nó kéo tôi ra
khỏi giường đến sáu bảy lần. Mặt
khác, già cũng có nhiều cái lợi lớn. Khác
chuyện lo nghĩ. Hết chơi với phụ nữ,
đấy là đại sự. Tôi không đi với
một bà nào từ gần ba mươi năm nay, anh tin tôi
đi. Hơn thế nữa, tôi không c̣n thiết gần
họ." Winston ngồi tựa vào thành cửa sổ.
Tiếp tục không ích ǵ. Anh tính mua thêm ít bia nữa th́
bỗng dưng ông lăo đứng dậy và lê nhanh vào
buồng tiểu hôi hám cạnh pḥng khách. Nửa lít
uống thêm đă bắt đầu hành ông ta. Winston
ngồi nh́n cốc rỗng của ḿnh một hai phút, và
không ư thức chân anh kéo anh ra ngoài phố trở lại
lúc nào. Nhiều nhất độ hai mươi năm
nữa, theo anh nghĩ, câu hỏi to tát và đơn
giản, "Đời sống thời trước Cách
Mạng có khá hơn thời nay không ?" sẽ vĩnh
viễn không c̣n ai trả lời được nữa. Nhưng
trên thực tế th́ ngay bây giờ cũng không có ai
giải đáp được, v́ số ít người
rải rác từng trải qua thế giới cũ c̣n
sống sót không đủ tư cách so sánh thời này
với thời kia. Họ nhớ một triệu điều
vô tích sự, một trận căi vă với một đồng
nghiệp, một cuộc đi t́m chiếc bơm xe bị
mất, nét mặt của một người chị đă
chết từ lâu, những xoáy bụi do gió thổi lên vào
một buổi sáng bảy mươi năm về trước,
nhưng mọi sự kiện đáng kể ở ngoài
tầm mắt họ. Họ như cái kiến chỉ
nhận thấy vật nhỏ mà không thấy được
vật lớn. Khi trí nhớ họ kém cỏi, và khi tài
liệu bị xuyên tạc -- khi đó bắt buộc
phải chấp nhận lời tuyên bố đă nâng cao
nếp sống nhân loại của Đảng, v́ không có
và không bao giờ có thể có lại một tiêu chuẩn
cho phép trắc nghiệm điều ấy. Tới đây
ḍng tư tưởng của anh vụt ngưng. Anh
dừng chân, ngước mắt nh́n. Anh đang ở trên
một phố hẻm có vài tiệm tối tăm xen
giữa nhà ở. Ngay trên đầu anh treo lủng
lẳng ba quả bóng kim khí đă phai mầu dáng chừng
xưa kia được mạ vàng. Anh h́nh như biết
nơi này. Lẽ dĩ nhiên ! Anh đang đứng ngoài
tiệm đồ cũ, nơi anh đă mua quyển
nhật kư.
Một tia sợ hăi xuyên
qua anh. Sự mua cuốn vở thoạt tiên đă là
một hành động khá khinh suất rồi, và anh đă
thề không bao giờ lại gần nơi này. Thế mà
anh vừa cho phép tư tưởng lang thang, chân anh tự
nó đă dẫn anh trở lại đây. Chính v́ mong ngăn
ḿnh có những hành vi tự sát kiểu ấy mà anh đă
khai trương cuốn nhật kư. Đồng thời anh
để ư thấy rằng mặc dầu đă gần
hai mươi mốt giờ, tiệm đồ vẫn c̣n
mở cửa. Nghĩ rằng ḿnh đỡ bị ḍm ngó
nếu vào trong hơn là đứng lê ngoài hè, anh bước
vào cửa tiệm. Nếu bị vặn hỏi anh có
thể trả lời như thực là anh đang lùng mua
dao cạo.
Người chủ
tiệm vừa mới đốt một chiếc đèn
dầu treo, làm tỏa ra một mùi hôi hỗn độn
nhưng thân thuộc. Ông ta là một người
khoảng sáu chục, gầy khom với một chiếc mũi
dài nhân từ và một đôi mắt hiền lành bị
cặp kính dày làm méo mó. Tóc ông ta gần bạc hết
nhưng lông mày ông ta rậm và hăy c̣n đen. Cặp kính
của ông ta, cử động hối hả nhẹ nhàng
của ông, và sự ông ta mặc một chiếc áo đuôi
tôm cũ bằng nhung đen, hơi làm cho ông có vẻ
một nhà trí thức, như thể ông ta là một
thứ nhà văn, hay có lẽ một nhạc sĩ.
Giọng ông ta ít thô hơn phần lớn dân đen. "Thấy
ông trên vỉa hè tôi nhận ngay ra ông," ông ta lập
tức nói. "Ông là người đă mua quyển
sổ tay thiếu nữ. Tập giấy ấy đẹp
đấy. Xưa nó có tên là giấy hằn kem. Không c̣n
giấy như vậy nữa -- xem nào, dám chừng từ năm
mươi năm nay." Ông ta ḍ hỏi Winston qua chỏm
kính. "Liệu tôi giúp được ông điều ǵ
đặc biệt không ? Hay ông chỉ muốn nh́n
quanh ?"
"Tôi tạt qua thôi,"
Winston mập mờ nói. "Tôi mới nḥm trong tiệm. Tôi
không cần ǵ đặc biệt."
"Thế cũng hay,"
ông ta nói. "V́ tôi không chắc làm vừa ḷng ông
được." Ông ta xua tay mềm mại lên xin
lỗi. "Ông thấy đó ; có thể nói là tiệm
trống rỗng. Nói thật ông hay, nghề buôn đồ
cổ sắp hết vận rồi. Không c̣n khách mà cũng
không c̣n hàng. Bàn ghế, bát đĩa, cốc chén -- các
thứ đó đă bị bể gẫy dần dần. Và
cố nhiên các hàng bằng kim khí đă bị đem đi
đúc. Mấy năm nay tôi không thấy một cây
nến đồng nào."
Bên trong cửa tiệm
nhỏ bé thật ra chật ních đồ đạc, nhưng
gần như không có ǵ mảy may đáng giá. Sàn nhà
bị thu hẹp hẳn lại v́ xung quanh tường
được dựng vô số khung ảnh đầy
bụi. Trong cửa kính có mấy mâm đựng đai
ốc với đinh ốc, kéo cùn, dao nhíp mẻ lưỡi,
đồng hồ xỉn không thể khoe nổi là
chạy được, và nhiều đồ lặt
vặt khác. Chỉ trên một cái bàn nhỏ tại góc
tiệm, một đống hàng táp nham -- hộp sơn mài
đựng thuốc hít, ghim cài bằng mă năo, vân vân --
coi như có thể chứa được một món hàng
đáng giá. Khi Winston lại gần bàn ấy, mắt anh
bắt gặp một vật trơn tṛn sáng dịu dưới
ánh đèn, và anh cầm nó lên.
Đó là một
khối thủy tinh nặng, một mặt cong, một
mặt phẳng, na ná h́nh một bán cầu. Mầu cũng
như chất thủy tinh gợi ư một sự dịu
mềm đặc biệt như thể nước mưa.
Ở giữa khối, được phóng đại
bởi mặt cong, có một vật uốn lạ hồng
làm liên tưởng đến một đóa hoa hồng
hay hải quỳ.
"Cái này là ǵ
vậy ?", Winston mê mẩn hỏi.
"Đó là san hô,"
ông già nói. " Chắc nó từ Ấn Đại Dương
tới. Xưa họ hay lồng nó vào thủy tinh. Nó
được chế tạo không dưới một trăm
năm nay. Cổ hơn nữa theo dáng tích của nó."
"Quả một
vật đẹp," Winston nói.
"Quả một
vật đẹp," ông già tấm tắc. "Nhưng
ngày nay không c̣n mấy người nói vậy." Ông ta
ho. "Này, nếu ông muốn mua nó, tôi lấy ông bốn
đôn. Tôi c̣n nhớ c̣ thời một vật như
thế giá lên tới tám bảng, và tám bảng là -- mà tôi
không tính ra nổi, nhưng là nhiều tiền lắm. Ngày
nay, đâu có ai để ư đến đồ cổ xác
thực, dù là vài thức c̣n lại ?"
Winston
trả bốn
đôn tức th́, và nhét vật thèm muốn vào túi. Điều
lôi cuốn anh không mấy là nét đẹp mà là cái
vẻ thuộc về một thế giới khác hẳn bây
giờ của nó. Chất thủy tinh dịu như nước
mưa không giống những thủy tinh mà anh đă
từng thấy. Vật này có sức quyến rũ
gấp bội v́ sự vô ích hiển nhiên của nó,
mặc dầu anh có thể đoán rằng có thời nó
được dùng làm chặn giấy. Nó rất nặng
trong túi anh nhưng cũng may nó không làm túi lồi lên
nhiều : Đảng viên giữ một vật như
vậy là một điều lạ lùng, nguy hiểm
nữa. Bất cứ vật ǵ cũ, tức vật ǵ
đẹp, đều luôn luôn có phần khả nghi. Ông
già vui hẳn lên khi nhận đuợc bốn đôn.
Winston hiểu rằng nếu anh trả ba hay hai đôn, ông
ta cũng chịu.
"Có một căn pḥng
trên gác đáng được ông xem," ông ta nói. "Không
có nhiều đồ. Chỉ vài thứ thôi. Ta sẽ
lấy đèn soi nếu lên gác."
Ông ta đốt một
cây đèn khác, và khom lưng chậm chạp dẫn
đường trên mấy bực thang dốc đứng
hư ṃn, rồi theo một hành lang hẹp tới một
căn pḥng không nh́n ra phố mà nh́n xuống một sân lát
sỏi và một rừng ống khói. Winston nhận
thấy bàn ghế được sắp đặt như
thể căn pḥng vẫn được dành cho người
ở. Có một mảnh thảm trên sàn, một hai tấm
tranh trên tường và một chiếc ghế bành
thiếu chải chuốt sát ḷ sưởi. Một đồng
hồ lồng kính kiểu xưa với mười hai
đốt mặt kêu tích tắc trên bàn ḷ sưởi. Dưới
cửa sổ, chiếm gần một phần tư căn
pḥng, là một cái giường lớn c̣n trải nệm.
"Chúng tôi từng
sống trong căn pḥng này cho tới khi nhà tôi mất,"
ông già ra chừng biện giải. "Tôi tính bán bàn
ghế dần dần. Này đây một chiếc giường
tuyệt hảo bằng gỗ gụ, hay ít nhất sẽ
tuyệt nếu trừ được hết rệp. Nhưng
dám nói ông thấy nó hơi cồng kềnh."
Ông ta giơ đèn lên
cao để chiếu sáng toàn căn pḥng, và dưới
ánh đèn mập mờ ấm áp nơi này có vẻ
mời mọc lạ. Winston thoáng nghĩ anh có thể
dễ dàng thuê căn pḥng này với vài đôn một
tuần, nếu anh dám liều. Đó là một ư tưởng
rồ dại không thể có được, phải
bỏ ngay khi nghĩ tới ; nhưng căn pḥng đă
gợi trong anh một thứ nhớ nhung, một loại kư
ức xa xưa. Anh cảm như biết rơ cái thú ngồi
tại một căn pḥng như thế này, trong một
chiếc ghế bành cạnh một ḷ sưởi rực
lửa, chân gác trên tấm chắn ḷ, có siêu nước
đặt trên bàn ḷ ; hoàn toàn đơn độc, hoàn
toàn an lành, không ai ḍm ngó, không tiếng ai đeo đuổi,
không tiếng động nào ngoài tiếng reo của siêu nước
và tiếng tích tắc của đồng hồ.
"Không có máy
truyền h́nh," anh không khỏi lẩm bẩm.
"Vâng," ông già nói,
"tôi không bao giờ có một thức như vậy. Quá
đắt. Và tôi coi như không bao giờ cần đến
nó. Này, ở góc kia là một cái bàn gấp. Nhưng dĩ
nhiên phải thay bản lề nếu muốn dùng cánh
gập."
Tại góc khác có
một giá sách nhỏ, và Winston đă tiến ngay về phía
nó. Nó chỉ đựng sách nhảm nhí. Sự săn
bắt và phá hủy sách đă được thi hành
một cách cặn kẽ tại khu dân đen chẳng kém
ǵ các khu khác. Vị tất kiếm nổi khắp Đại
Dương một quyển sách in trước 1960. Ông già,
tay vẫn cầm đèn, đứng trước một
bức tranh có khung bằng gỗ trắc treo bên kia ḷ sưởi,
đối diện với giường.
"Này, thảng
hoặc ông lưu ư đến tranh xưa --," ông ta
bắt đầu ư nhị nói.
Winston
băng qua pḥng
để ngắm bức tranh. Đó là một bản
khắc trên thép, h́nh dung một ṭa nhà h́nh bầu dục
có nhiều cửa sổ vuông góc và một cái tháp
nhỏ trước mặt. Có một hàng rào chạy quanh
ṭa nhà và ở măi sau có một vật tựa như
một bức tượng.
"Khung bị đóng
vào tường," ông già bảo, "nhưng dám nói tôi
có thể tháo nó ra cho ông."
"Tôi biết ṭa nhà
này," sau cùng Winston nói. "Nay nó đă đổ nát. Nó
ở giữa con phố ngoài Ṭa Án."
"Phải. Ngoài Ṭa
Sảnh. Nó bị bỏ bom -- xem nào, nhiều năm về
trước. Có thời nó là nhà thờ, có tên là nhà
thờ Thánh Clement Danes." Ông ta cười ra chiều xin
thứ như thể ông ta cảm thấy ḿnh khá lố lăng,
và tiếp : "Cam với chanh, chuông Thánh Clement reo !"
"Cái ǵ vậy ?"
Winston hỏi.
"Ồ -- "Cam
với chanh, chuông Thánh Clement reo !" Đó là một
bài ca chúng tôi hát khi c̣n nhỏ. Sau câu ấy là ǵ, tôi không
nhớ, nhưng tôi biết nó kết cục bằng "Đây
là một cây nến để đưa mày đi ngủ,
đây là con dao phay để chặt cái đầu mày".
Nó là một thứ bản nhảy. Trẻ con giương
tay ra cho kẻ khác đi qua, và khi tới câu "Đây là
con dao phay để chặt cái đầu mày," chúng
hạ tay xuồng và bẳt giữ người ta lại.
Bài toàn là tên nhà thờ. Tất cả các nhà thờ Luân
Đôn được nhắc tới trong đó, những
nhà thờ chính, dĩ nhiên."
Winston
mơ hồ
tự hỏi không biết nhà thờ này thuộc thế
kỷ nào. Bao giờ cũng khó xác định được
tuổi của một dinh thự tại Luân Đôn.
Bất cứ ṭa nhà nào to lớn oai vệ, nếu tương
đối mới, cũng tất nhiên được coi là
được xây sau Cách Mạng, trong khi những nhà quá
rơ ràng xưa hơn được liệt vào một
thời mờ ảo, gọi là thời Trung Cổ. Mấy
thế kỷ tư bản đuợc xem như không
sản xuất được ǵ có giá trị. Không
thể học được lịch sử qua kiến trúc
cũng như qua sách. Tượng, văn khắc, bia
kỷ niệm, tên phố -- bất cứ ǵ có thể làm
sáng tỏ quá khứ đều bị sửa đổi.
"Tôi không hề
biết đó trước kia là một nhà thờ," anh
nói.
"C̣n nhiều nhà
thờ như vậy tồn tại, thật thế," ông
già nói, "mặc dầu những ṭa nhà ấy được
dùng vào việc khác. Này bài ca tiếp tục ra sao nhỉ ?
A ! tôi nhớ ra rồi !
Đấy,
tôi chỉ nhớ tới đó. Một trinh, ấy là
một đồng tiền nhỏ, kiểu như một
xu."
"Nhà thờ Thánh
Martin ở đâu ?" Winston hỏi.
"Nhà thờ Thánh
Martin ư ? Nó vẫn đứng vững. Nó ở trên
Công Trường Chiến Thắng, dọc pḥng triển lăm
tranh. Một ṭa nhà có một thứ cổng h́nh tam giác
với một số cột đằng trước và
một nhịp thang lớn."
Winston
biết rơ nơi
này.Đó là một viện bảo tàng dùng để
triển lăm nhiều loại vật tuyên truyền --
mẫu bom lửa và Pháo Đài Nổi thu nhỏ, cảnh
nặn sáp minh họa sự dă man của quân địch,
vân vân.
"Nhà ấy xưa thường
được gọi là nhà thờ Thánh Martin Giữa
Đồng," ông già bổ túc, "tuy tôi không nhớ
có cánh đồng nào ở khu đó."
Winston
không mua bức
tranh. Nó là một vật sở hữu trái phép hơn
khối chặn giấy, và không thể mang nó về nhà
được trừ phi gỡ nó ra khỏi khung. Nhưng
anh trần trừ thêm vài phút để nói chuyện
với ông già được anh phát giác có tên không
phải là Weeks -- như ai cũng phỏng đoán theo
chữ ghi trên bảng hiệu -- mà là Charrington. Ông
Charrington dường như là một người góa
vợ, lên sáu mươi ba tuổi, và sống ở
tiệm này đă được ba mươi năm.
Suốt thời gian này ông ta tính sửa lại tên ghi trên
cửa kính, nhưng chưa hề bắt tay thực
hiện ư định đó. Trong lúc anh nói chuyện, bài
ca nhớ nửa chừng lởn vởn trong đầu óc
Winston. Cam với chanh, chuông Thánh Clement reo, mày thiếu tao
ba trinh, chuông Thánh Martin reo ! Rơ lạ, khi anh lẩm
nhẩm hát bài ấy, anh có cảm tưởng thực
sự nghe thấy tiếng chuông, tiếng các chuông của
một thành phố Luân Đôn đă mất nhưng
vẫn tồn tại đâu đó, bị ngụy trang và
đi vào quên lăng. Từ gác chuông ma này đến gác chuông
ma khác, anh tưởng như nghe chúng ngân hồi. Song le,
trong chừng mực mà anh nhớ, trong đời anh, anh chưa
bao giờ nghe thấy tiếng chuông nhà thờ kêu.
Anh
cáo từ ông
Charrington và xuống cầu thang một ḿnh, cốt để
ông già không trông thấy anh trinh sát phố trước khi
bước ra khỏi cửa. Anh quyết định
sẽ trở lại thăm tiệm đồ sau một quăng
thời gian hợp lư -- cho là một tháng. Có lẽ làm
vậy không nguy hiểm hơn sự tránh né một
buổi họp chiều tại Trung Tâm. Trên hết, hành
động thật điên rồ là trở lại đây
sau chuyến mua quyển nhật kư, trong khi không biết người
chủ tiệm có đáng tin cậy không. Tuy nhiên -- !
Phải, anh lại nghĩ,
anh sẽ trở lại. Anh sẽ mua thêm nhiều món hàng
đẹp bị rẻ rúng. Anh sẽ mua bản khắc nhà
thờ Thánh Clement Danes, gỡ nó ra khỏi khung và mang
giấu nó về nhà dưới nửa trên bộ áo
liền quần của anh. Anh sẽ lôi kéo khỏi kư
ức ông Charrington phần c̣n lại của bài thơ.
Ngay cả cái dự kiến điên khùng tính thuê căn pḥng
trên gác cũng thoáng trở lại óc anh. Trong khoảng năm
giây sự hứng khởi làm anh mất thận trọng và
anh không liếc qua cửa sổ trước khi bước
ra hè. Anh c̣n bắt đầu ngâm nga theo một điệu
ứng tác :
Cam
với chanh, chuông
thánh Clement reo,
Bỗng dưng tim anh cứng thành đá và ruột anh nhăo
ra nước. Một bóng người mặc áo liền
quần xanh đang xuôi vỉa hè, cách anh không dưới
mười thước. Đó là cô gái thuộc Cục
Truyện, cô gái tóc đen. Ánh sáng yếu ớt nhưng
nhận ra cô ta không khó. Cô ta nh́n thẳng vào mặt anh
rồi rảo bước nhanh như thể cô ta không trông
thấy anh.
Trong
vài giây Winston
bị quá tê liệt không đụng đậy được.
Rồi anh rẽ qua tay phải và nặng nề quay gót,
nhất thời không để ư rằng ḿnh đang đi
nhầm đường. Dù sao chăng nữa, nghi vấn
đă được giải quyết. Không c̣n ngờ ǵ
nữa, cô gái theo dơi anh. Cô ta chắc theo anh tới đây,
v́ không thể tin được rằng do t́nh cờ cô
ta và anh tản bộ cùng một buổi chiều trên cùng
một ngơ hẻm tối tăm, cách xa mọi khu cư
ngụ của Đảng viên. Đó là một sự trùng
hợp quá lớn. Cô ta thực là một viên chức
thuộc Cảnh Sát Tư Tưởng hay chỉ là một
điệp viên tài tử bị ḷng sốt sắng thúc
đẩy, điều đó không quan trọng mấy.
Biết cô ta giám sát anh là đủ rồi. Có thể cô
ta nh́n thấy anh vào pớp cũng nên.
Tiến bước là
cả một sự cố gắng. Mỗi lần bước,
khối thủy tinh trong túi anh đập vào đùi anh
khiến anh nửa muốn lôi nó ra và quẳng nó đi.
Tệ nhất là chứng đau bụng. Trong độ hai
phút anh có cảm giác ḿnh sẽ chết nếu không
sớm vào chuồng xí. Nhưng không có buồng vệ sinh
công cộng tại một khu nhà như thế này. Rồi
cơn quặn đau biến mất, chỉ để
lại một nỗi đau ngầm.
Con
phố anh đang theo
là một ngơ cụt. Winston dừng chân, đứng yên vài
giây, mơ hồ tự hỏi phải làm ǵ đây,
rồi quay gót trở lại, bắt đầu giẫm lên
bước cũ. Đương lúc quẹo, anh chợt
nghĩ cô gái qua mặt anh có ba phút trước, nếu
anh chạy anh có thể đuổi kịp cô ta. Anh có
thể theo sau cô ta cho tới khi đến một chỗ
vắng, rồi lấy một ḥn đá đập vào
sọ cô ta. Miếng thủy tinh trong túi anh đủ
nặng để làm việc đó. Nhưng anh bỏ ư
nghĩ ấy ngay v́ anh không chịu nổi ứng lực
thể xác dù trong tưởng tượng. Anh không
chạy được, anh không đập được.
Vả lại, cô ta trẻ và khỏe mạnh, thế nào cũng
sẽ tự vệ. Anh cũng nghĩ tới sự
chạy vội về Trung Tâm và ngồi đó cho tới
giờ đóng cửa để thác tạo bằng cớ
cho buổi chiều nay. Nhưng điều này anh cũng không
làm nổi. Một sự mệt mỏi cực độ xâm
nhập anh. Anh chỉ muốn chóng về nhà ngồi yên.
Đă quá hai mươi
hai giờ khi anh trở về pḥng anh. Thông thường
phải tắt đèn vào lúc hai mươi ba giờ rưỡi.
Anh vào bếp nốc gần cạn một chén đầy
rượu gin Chiến Thắng. Rồi anh lại cái bàn
trong hốc, ngồi xuống, và lôi quyển nhật kư ra
khỏi ngăn kéo. Nhưng anh không mở nó ra ngay. Từ
máy truyền h́nh một giọng nữ đanh đanh
rống lên một bài ca yêu nước. Anh ngồi
ngắm tấm b́a vân đá, cố gạt tiếng hát
khỏi tâm thức anh nhưng vô hiệu quả.
Đêm đến, chúng
mới đi bắt người, chuyên môn khi đêm đến.
Điều hợp lư nhất là tự sát trước khi
bị chúng tóm. Chắc chắn nhiều người làm
vậy. Nhiều sự mất tích thực ra do tự
vẫn. Nhưng phải can đảm tuyệt vọng
lắm mới tự sát được trong một thế
giới không thể kiếm ra súng hay thuốc độc có
hiệu nghiệm mau lẹ. Anh khá lấy làm lạ khi nghĩ
tới sự vô ích cho sinh vật của nỗi đau
đớn và sợ hăi, tới sự lừa đảo
của thể xác luôn luôn băng trơ đúng lúc
cần phải đặc biệt cố gắng. Anh đă
bịt miệng được cô gái tóc đen nếu anh
hành động nhanh kịp : nhưng chính sự nguy
cấp đă làm anh mất khả năng hành động.
Anh ngạc nhiên nhận thấy rằng trong lúc khủng
hoảng, con người không bao giờ chiến đấu
với ngoại địch mà luôn luôn chống lại chính
ḿnh. Ngay bây giờ, tuy đă uống rượu gin,
chứng đau bụng ngầm khiến anh không thể suy
nghĩ liên tục được. Và, theo nhận xét
của anh, đó là sự thể trong mọi trường
hợp anh hùng hay bi thảm. Trên chiến trường,
trong pḥng tra tấn, trên một con tàu đang ch́m,
những lư do đấu tranh luôn luôn bị quên, v́
thể xác phồng lên ngập vũ trụ, và ngay khi ḿnh
không bị tê liệt v́ sợ hăi hay không gào thét v́
đau đớn, đời sống là một cuộc
tranh đấu từng giây từng phút chống sự
đói lạnh thiếu ngủ, chống một dạ dày
gay gắt hay một cái răng nhức nhối.
Anh
mở nhật kư ra.
Quan trọng là viết vào đó. Người đàn bà trên
máy truyền h́nh đă bắt đầu ca một bản
khác. Giọng chị ta tuồng như bám vào óc anh như
những mảnh kính nhọn. Anh cố nghĩ tới O'
Brien là người v́ ai hay cho ai anh viết nhật kư, nhưng
thay vào đó anh nghĩ đến những điều
sẽ xảy ra cho anh nếu Cảnh Sát Tư Tưởng
bắt anh đi. Nếu chúng giết anh ngay, không sao
cả. Bị giết là điều anh chờ đợi.
Nhưng trước khi chết (không ai nói về những
chuyện này, nhưng ai cũng biết hết) có tṛ thú
tội phải trải qua : sự ḅ lê trên sàn nhà gào
hét xin tha, tiếng xương kêu răng rắc, hàm răng
bị đập nát, và cụm tóc đẫm máu. Tại
sao phải chịu đựng những cực h́nh đó
khi kết cuộc bao giờ cũng như nhau ? Tại
sao không thể cắt khỏi cuộc đời vài ngày
hay vài tuần ? Chưa có ai thoát được sự
giám sát và chưa có ai không chịu thú tội. Một khi
phạm phải tội tư tưởng, một ngày
nhất định nào đó chắc chắn bạn
phải chết. Vậy v́ sao cái sự rùng rợn không
thay đổi được ǵ đó, vẫn nằm
gọn trong tương lai ?
Anh
thành công hơn trước
khi muốn gợi lại h́nh ảnh của O' Brien. "Chúng
ta sẽ gặp nhau tại một nơi không có bóng
tối", O' Brien đă nói thế với anh. Anh biết
nghĩa câu ấy, hay cho là ḿnh biết. Nơi không có bóng
tối là cái tương lai tưởng tượng, không
bao giờ thấy được, nhưng có thể tham gia
một cách thần bí nhờ óc tiên đoán. Nhưng
với giọng nói từ máy truyền h́nh lảm nhảm
bên tai, anh không thể theo đuổi ḍng tư tưởng
của anh. Anh đút thuốc lá vào mồm. Nửa số
thuốc rơi ngay xuống lưỡi anh, một thứ
bụi đắng khó nhổ ra được. Gương
mặt Bác phảng phất trong óc anh, đẩy lui h́nh
ảnh của O' Brien. Như anh đă làm vài ngày trước,
anh rút một xu ra khỏi túi và nh́n vào nó. Gương
mặt nh́n lại anh, tŕ độn, b́nh thản, che
chở : mà nụ cười được che đậy
dưới cặp râu đen thuộc loại nào ? Như
một hồi chuông báo tử, mấy khẩu hiệu tái
hiện trước mắt anh :