Winston viết : Nếu có hy vọng, nó nằm nơi
dân đen.
Nếu có hy vọng,
nó
phải nằm nơi dân đen, v́ chỉ trong đám
quần chúng lúc nhúc bị khinh khi ấy, gồm tám mươi
nhăm phần trăm dân số Đại Dương,
mới có thể nẩy nở ra được cái
sức mạnh tiêu diệt nổi Đảng. Đảng
không thể bị lật đổ từ trong. Kẻ thù
của Đảng, nếu có, chẳng có cách nào sát cánh
nhau hay nhận diện ra nhau. Ngay nếu Hội T́nh Thân
hoang đường có thật, như có thể họa may,
khó tưởng tượng họ tụ tập nổi quá
hai ba hội viên. Ḷng phản nghịch chỉ hiện ra
trong ánh mắt, giọng nói, hay tiếng th́ thầm
nếu có dịp. Nhưng dân đen, giá có cơ ư
thức được thế lực của ḿnh, họ
sẽ không cần mưu phản. Họ chỉ cần vùng
lên và lay ḿnh như ngựa phẩy ruồi. Nếu họ
muốn, họ có thể thổi tan Đảng ngay sáng
mai. Chắc chắn sớm muộn ǵ họ cũng nghĩ
tới điều đó. Thế nhưng -- !
Anh
nhớ có lần anh
đang tản bộ theo một đường phố
đông đúc bỗng một tiếng la ó khủng
khiếp của hàng trăm tiếng người --
tiếng đàn bà -- bùng lên từ một bên phố trước
mặt anh. Đó là một tiếng gào ghê gớm v́
tức giận và thất vọng, một tiếng
"Ồ... Ồ..." to lớn sâu thẳm liên tiếp
ù ù như tiếng chuông dội. Tim anh chồm lên. Bắt
đầu rồi ! anh đă nghĩ vậy. Một
cuộc nổi loạn ! Tận cùng dân đen đă phá
xiềng ! Khi anh tới nơi anh thấy một đám
đông gồm hai ba trăm phụ nữ bu quanh sạp hàng
chợ phố, mặt mũi bi thảm như thể
họ là hành khách sắp tử nạn của một con tàu
đang ch́m. Nhưng hiện th́ nỗi thất vọng
chung tan thành vô số cuộc căi vă tư. Hóa ra có một
sạp hàng bán chảo thiếc. Đó là những hàng
tồi mỏng, nhưng các loại dụng cụ nấu
bếp luôn luôn khan hiếm. Giờ th́ hàng cung cấp
bất ngờ hết sạch. Những bà có hên, bị
đẩy đập bởi người khác, cố len ra
ngoài với chảo của họ, trong khi hàng tá bà khác la
ó quanh sạp hàng, đổ tội cho người giữ
sạp thiên vị và c̣n dự trữ chảo đâu
đó. Lại một trận ḥ hét mới. Hai bà mập,
một người xơa tóc, tranh nhau một cái chảo, người
nọ cố giựt nó khỏi tay người kia. Cả
hai giằng co một hồi và cán chảo tuột ra.
Winston kinh tởm nh́n họ. Thế mà, trong có một lúc,
tiếng kêu chỉ từ vài trăm cuống họng phát
ra một uy lực gần như hăi hùng biết bao !
Tại sao họ không bao giờ ḥ hét như vậy cho
một chuyện đáng kể ?
Anh
viết :
Họ c̣n chưa ư
thức, họ không bao giờ nỗi loạn, và họ c̣n
chưa nổi loạn, họ không bao giờ ư thức.
Điều này gần
giống như một câu trích trong sách khái luận
của Đảng, anh nghĩ. Cố nhiên, Đảng rao là
đă giải phóng dân đen khỏi phận đọa
đầy. Trước Cách Mạng, họ bị tư
bản hà hiếp thậm tệ, họ bị bỏ đói
đánh quật, đàn bà bị ép làm việc trong mỏ
than (sự thể th́ đàn bà vẫn làm việc trong
mỏ than), trẻ con bị bán cho xưởng thợ ngay
khi lên sáu. Nhưng đồng thời, đúng theo nguyên lư
ư đôi, Đảng dạy rằng dân đen bẩm
chất là bề dưới phải bị giữ trong
sự phục tùng, giống như súc vật, nhờ
sự áp dụng vài điều luật đơn giản.
Thực ra sự hiểu biết về dân đen không có
mấy. Không cần biết nhiều về họ. Họ c̣n
tiếp tục làm việc và sinh sản, hoạt động
khác của họ không đáng kể. Khi được
để mặc, như đàn ḅ được thả
lỏng trên đồng bằng Argentine, họ quay trở
về lối sống bẩm sinh của họ, một
mẫu sống cổ xưa. Họ sinh ra và lớn lên
trong cảnh đê hèn, họ đi làm khi mười hai
tuổi, họ trải qua một thời xuân sắc và t́nh
dục ngắn, họ lấy vợ lấy chồng khi hai
mươi tuổi, họ tới trung niên khi ba mươi
tuổi, phần đông họ chết khi sáu mươi
tuổi. Công việc nặng nhọc, sự săn sóc nhà
cửa con cái, những cuộc căi vă ty tiện với hàng
xóm, phim ảnh, bóng đá, bia và trên hết cờ bạc,
lấp đầy chân trời tinh thần của họ.
Kiểm soát họ không khó ǵ. Vài nhân viên Cảnh Sát Tư
Tưởng luôn luôn lưu hành giữa họ, phao tin đồn
bậy rồi ghi tên và loại trừ số ít người
có thể trở thành nguy hiểm ; Nhưng không có sự
thử thuyết phục họ theo học thuyết Đảng.
Dân đen không nên có tinh thần chính trị mạnh.
Chỉ nên đ̣i hỏi nơi họ một ḷng yêu nước
nguyên thủy có thể kêu gọi được mỗi
khi cần khiến họ chấp nhận làm việc thêm
nhiều giờ hay có ít khẩu phần hơn. Và ngay khi
họ bất măn, như thỉnh thoảng xảy ra,
sự bất măn của họ không đi đến đâu
v́ không dựa vào ư tưởng tổng quát, cho nên
họ chỉ có thể tập trung cơn tức giận vào
những mối phiền đặc thù nhỏ mọn.
Những tai họa lớn không được họ lưu
ư tới. Phần đông dân đen không có máy truyền h́nh
trong nhà. Ngay cảnh sát dân sự cũng ít can thiệp vào
chuyện họ. Tại Luân Đôn số kẻ phạm
tội ác rất là lớn, có cả một thế
giới trong thế giới trộm cướp, đĩ
điếm, con buôn ma túy và quân tống tiền đủ
kiểu ; nhưng v́ mọi chuyện xảy ra giữa dân
đen với nhau, điều đó không quan trọng. Trong
mọi vấn đề luân lư họ được phép
theo tục lệ cổ truyền. Luật nghiêm khắc
về sinh dục không ràng buộc họ. Họ không
bị phạt v́ chung chạ bừa băi, và được
phép ly dị. Phải nói là ngay sự phụng thờ tôn
giáo cũng được cho phép nếu dân đen tỏ
vẻ cần hay muốn vậy. Họ ở dưới
mọi sự ngờ vực. Như khẩu hiệu của
Đảng đề xướng : "Dân đen và thú
vật có tự do".
Winston
với tay
xuống chỗ loét giăn tĩnh mạch và cẩn thận
găi. Nó lại bắt đầu ngứa. Vấn đề
luôn luôn ám ảnh anh là sự không thể biết
được hồi trước Cách Mạng đời
sống ra sao. Anh rút khỏi ngăn kéo một bản sách
sử dạy trẻ con mượn được của
bà Parsons, và bắt đầu chép một đoạn vào
nhật kư :
Thuở xưa (sách
viết vậy), trước Cách Mạng hiển hách, Luân
Đôn không phải là thành phố đẹp đẽ mà
chúng ta biết ngày nay. Đó là một nơi tối tăm,
bẩn thỉu, tồi tàn, hiếm ai đủ ăn, có hàng
trăm hàng ngàn dân nghèo không có giầy ống để
đi và không có cả mái nhà để ngủ. Trẻ con
không lớn hơn các em phải làm việc mười hai
tiếng một ngày cho bầy chủ ác nghiệt, họ
quật roi vào chúng nếu chúng làm việc quá chậm và
không cho chúng ăn uống ǵ ngoài vài mẩu bánh ḿ khô
với nước. Nhưng giữa toàn sự nghèo khổ
kinh khủng đó, có vài ṭa nhà to lớn tráng lệ do người
giàu ở với khoảng ba chục đầy tớ
hầu hạ họ. Những người giàu đó
được gọi là dân tư bản. Người
họ mập mạp xấu xí, gương mặt họ
đanh ác như người trong h́nh ở trang bên. Các em
có thể thấy hắn mặc một chiếc áo khoác
đen dài kêu là áo choàng rộng, và đội một cái
mũ bóng lạ h́nh ống sưởi kêu là mũ cao thành.
Đó là bộ đồng phục của dân tư
bản, và không ai khác có quyền mặc như vậy. Dân
tư bản làm chủ mọi thứ trên thế giới
và mọi người khác đều là nô lệ của
họ. Họ làm chủ mọi đất đai, mọi
nhà cửa, mọi xưởng hăng và mọi tiền tài.
Nếu ai không tuân lệnh họ, họ có thể tống
người ấy vào tù, hoặc tước công việc
của người ấy, hoặc bỏ người
ấy chết đói. Khi một người thường
nói chuyện với một dân tư bản, người
ấy phải khúm núm, cúi chào, bỏ mũ và xưng
với hắn ta : "Thưa ngài". Kẻ đứng
đầu các dân tư bản được gọi là
Vua và --
Nhưng anh thuộc
phần liệt kê c̣n lại. Sẽ được nêu lên
những giám mục trong cánh áo mỏng, những quan ṭa
trong áo lông chồn trắng, cái cột bêu tội nhân,
những khối hàng tồn trữ, cái cối xay kỷ
luật, cái roi chín đuôi, bữa tiệc mừng Thị
Trưởng, và tục hôn chân Giáo Hoàng. Lại c̣n
một thứ gọi là quyền đêm đầu tiên,
chắc không được ghi trong sách dành cho trẻ con.
Đó là một đạo luật cho phép các dân tư
bản có quyền ngủ với mọi phụ nữ làm
việc trong xưởng của họ.
Làm sao phân định
được phần nói dối ? Có thể thật
sự trung b́nh ra, con người ngày nay sống khá hơn
thời trước Cách Mạng. Nghịch cứ độc
nhất là sự phản kháng của xương cốt
anh, linh giác rằng những điều kiện sống
hiện tại không thể chấp nhận được,
rằng phải có thời chúng khác hẳn. Anh bị kích
động bởi ư nghĩ rằng đặc tính đúng
của đời sống mới không phải là sự ác
nghiệt hay bấp bênh của nó, mà chính là sự
trống rỗng, vộ vị và vô tâm của nó. Nếu
nh́n quanh, đời sống không những không giống
những điều dối trá tuôn ra từ máy truyền h́nh,
mà c̣n không giống những lư tưởng mà Đảng
cố thực hiện. Quăng lớn đời sống, ngay
đối với một Đảng viên, lừng chừng
và không liên quan đến chính trị, nó là vất
vả lo toan những công việc tẻ nhạt, là tranh giành
một chỗ trong tàu hầm, là vá lại bí tất cũ
rách, là xin xỏ một thẻ đường tinh, là
để dành một mẩu thuốc lá. Lư tưởng do
Đảng dựng lên là một cái ǵ to tát, khủng
khiếp và chói lọi -- một thế giới của thép
và xi măng, của những máy móc quái gở và những
khí giới kinh hồn --, một quốc gia chỉ gồm
chiến sĩ và cuồng đồ hoàn toàn nhất trí
tiến bước, cùng nghĩ như nhau, hô hào khẩu
hiệu giống nhau, luôn luôn làm việc, chiến đấu,
thắng trận và hành hạ người -- ba trăm
triệu người cùng một gương mặt.
Thực tế là những thành phố đổ nát,
buồn tẻ, trong đó dân chúng thiếu ăn lê qua lê
lại trong những đôi giầy thủng lỗ tại
những căn nhà vá víu xây từ thế kỷ mười
chín hôi mùi rau cải và chuồng xí thối. Anh h́nh dung
cảnh một thành phố Luân Đôn rộng lớn và
đổ nát với một triệu thùng rác, và lẫn vào
đó là h́nh ảnh của bà Parsons, một người
đàn bà có khuôn mặt nhăn nheo và bộ tóc rối
tung, đang loáy hoáy sửa một ống tháo nước.
Anh
lại cúi xuống và
găi đầu gối. Đêm ngày máy truyền h́nh làm chói
tai người với những con số thống kê
chứng tỏ rằng ngày nay dân chúng có nhiều thức
ăn hơn, nhiều quần áo hơn, nhà cửa tốt
hơn, tṛ giải trí hay hơn -- rằng họ sống lâu
hơn, làm việc ít giờ hơn, cao lớn hơn,
khỏe mạnh hơn, mập mạp hơn, sung sướng
hơn, thông minh hơn, có giáo dục hơn năm mươi
năm về trước. Không chứng minh hay bác bỏ
được lời nào trong đó. Ví dụ, Đảng
tuyên bố ngày nay 40% dân đen đứng tuổi
biết đọc : trước Cách Mạng, theo Đảng,
con số chỉ là 15%. Đảng bảo rằng ngày nay
tỷ lệ trẻ con tử vong là 160/1000 trong khi trước
Cách Mạng nó là 300/1000 -- và cứ như thế. Y như
một phương tŕnh đơn với hai ẩn số.
Rất có thể điều nào trong sách sử, ngay cả
những điều được chấp nhận không
đắn đo, cũng là điều bịa đặt.
Theo chỗ anh biết, có thể chưa hề có điều
luật nào là quyền đêm đầu tiên, có
sinh vật nào là dân tư bản, hoặc có mũ nào là
mũ cao thành.
Mọi sự tan
biến trong mù mịt. Quá khứ đă bị san bằng,
sự san bằng đă đi vào quên lăng, sự dối trá
đă trở thành sự thật. Chỉ một lần
trong đời anh anh đă nắm được -- sau sự kiện : thế mới đáng kể -- một
bằng chứng cụ thể không thể lầm lẫn
được về một hành động giả
mạo. Anh đă giữ nó trong tay anh đến ba mươi
giây. Năm 1973, chắc hẳn thế -- dù sao đi
nữa, đó là vào lúc anh và Katharine ly thân nhau. Nhưng
thời gian hợp lư thực ra là bẩy tám năm về
trước.
Câu chuyện thực
sự bắt đầu vào khoảng giữa những năm
sáu mươi, thời kỳ những cuộc đại
thanh trừ khiến các lănh tụ Cách Mạng khởi
đầu bị quét sạch. Khoảng 1970 không c̣n
một người nào tồn tại ngoại trừ Bác.
Mọi người khác đă bị vạch trần là quân
phản loạn hay phản Cách Mạng. Goldstein đă
chạy trốn và ẩn nấu ở đâu không ai
biết, c̣n những người khác th́ một phần
nhỏ mất tích trong khi phần lớn bị xử
tử sau khi thú tội trong những phiên ṭa công khai. Trong
đám người sống sót cuối cùng có ba người
tên là Jones, Aaronson và Rutherford. Ba người ấy chắc
bị bắt vào khoảng năm 1965. Như thường
xảy ra, họ mất tích trong ṿng một năm hay hơn,
khiến không ai biết họ sống hay chết, rồi
bỗng nhiên họ được đưa ra ánh sáng
để tự buộc tội như thường lệ.
Họ thú tội đă thông đồng với kẻ thù
(lúc đó kẻ thù cũng là ÂuÁ), đă biển thủ
quỹ công cộng, đă ám sát nhiều Đảng viên
trung thành, đă dùn thủ đoạn chống sự lănh
đạo của Bác, một sự lănh đạo đă
bắt đầu trước Cách Mạng, và đă có
những hành động phá hoại làm chết hàng trăm
hàng ngàn dân chúng. Sau khi xưng những tội ấy,
họ được tha thứ, được thâu
hồi vào Đảng, và được giao những
chức vụ có tên kêu to nhưng thực sự nhàn
rỗi. Cả ba đă viết trong Thời Báo nhiều bài vở dài, đê hèn, phân tích những lư do
khiến họ làm phản và hứa sẽ chuộc
tội.
Ít lâu sau khi họ
được thả, Winston thấy cả ba trong quán cà
phê Cây Lật. Anh nhớ lại sức thôi miên ghê
gớm lôi cuốn anh liếc nh́n họ. Họ lớn
tuổi hơn anh nhiều, họ là di sản của
thế giới cũ, gần như là những nhân vật
lớn chót của thời anh hùng của Đảng. Uy tín
của cuộc tranh đấu ngầm và của cuộc
nội chiến phảng phất quanh họ. Anh có cảm tưởng
anh biết tên họ sớm hơn biết tên Bác, mặc
dầu sự kiện và ngày tháng lúc bấy giờ đang
lu mờ. Nhưng họ cũng là kẻ sống ngoài ṿng
pháp luật, là kẻ thù, kẻ không nên đụng
tới, chắc chắn sẽ bị hành quyết một
hai năm nữa.
Không có ai ngồi
tại bàn cạnh họ. Bị bắt gặp gần
những người như vậy không hay tí nào. Họ
ngồi yên lặng trước cốc rượu gin
tẩm đinh hương là món đặc biệt của
quán cà phê. Trong ba người Rutherford có dáng điệu làm
xúc động Winston nhất. Rutherford có thời là người
vẽ biếm họa danh tiếng, những bức họa
hung tợn của ông đă nung nấu dư luận
quần chúng trước và sau Cách Mạng. Ngay bây giờ,
lâu lâu biếm họa của ông xuất hiện trên Thời
Báo. Những bức ấy chỉ mô phỏng văn
phong xưa của ông, và lạ thay không sống động
và không có sức thuyết phục. Luôn luôn những
bức ấy nhai lại các đề tài cũ -- nhà
ổ chuột, trẻ con chết đói, trận đánh
ngoài phố, dân tư bản đội mũ cao thành --
ngay trên rào chặn dân tư bản h́nh hư bo bo lấy
mũ cao thành -- quả là một sự cố gắng vô
vọng trở về quá khứ. Ông ta là một người
quái dị với cḥm tóc xám mỡ, một khuôn mặt
xị nhăo đầy sẹo, và đôi môi dày như môi
người da đen. Có thời ông ta phải vĩ đại
lắm ; nay th́ thân h́nh to lớn của ông sụt
xuống, xiêu khum lại, ngả sụm tứ phía. Ông h́nh
như tản mát trước mắt mọi người,
tựa một trái núi vỡ vụn. Lúc đó là mười
năm giờ, giờ vắng vẻ. Winston không nhớ
được tại sao anh lại đến quán cà phê vào
giờ ấy. Quán gần như trống không. Một
điệu nhạc đanh sắt tuôn ra từ máy
truyễn h́nh. Ba người ngồi trong xó của họ,
không đụng đậy, không nói năng ǵ. Không đợi
lệnh, người bồi bàn mang đến trước
họ ba cốc rượu gin lạnh. Có một bàn
cờ trên một bàn cạnh họ, với quân cờ
đă đặt sẵn, nhưng ván chưa bắt đầu.
Vào lúc đó, có lẽ trong một nửa phút, một
việc xảy ra trên máy truyền h́nh. Bản nhạc
đang đánh biến đổi và cả điệu
nhạc cũng đổi. Thay vào đó -- nhưng khó
tả nổi -- là nó. Một điệu đặc
biệt, gẫy đoạn, vang vang, riễu cợt. Trong trí
anh, Winston gọi nó là nhạc vàng. Và rồi một
giọng hát cất lên từ máy truyền h́nh :
Ba người đàn ông không hề nhúc nhích. Nhưng khi
Winston liếc nh́n lại gương mặt tàn phá của
Rutherford, anh thấy ông ta đầm đ́a nước
mắt. Và lần đầu tiên anh nhận thấy cả
Aaronson lẫn Rutherford đều có mũi gẫy, mà
thầm rùng ḿnh -- tuy anh không hiểu anh run sợ ǵ
--.
Ít lâu sau cả ba người
bị bắt trở lại. Ra chừng họ dấn thân
vào nhiều cuộc mưu phản mới ngay từ khi
được thả ra ngoài. Lần xử thứ hai
họ thú mọi tội cũ của họ một lần
nữa cùng với một tràng tội mới. Họ
bị xử tử và phận của họ được
ghi trong các lịch sử Đảng để răn
hậu thế. Khoảng năm năm sau đó, năm 1973,
Winston đang giở một cuộn tài liệu tuột
khỏi ống hơi xuống bàn giấy của anh,
bỗng vớ được một mảnh giấy
hiển nhiên bị lẫn quên trong mớ giấy khác. Anh
vừa trải nó ra đă thấy ngay ư nghĩa quan
trọng của nó. Đó là một nửa trang Thời
Báo rách in khoảng mười năm về trước
-- nửa trang trên cho nên có ghi ngày tháng -- có đăng h́nh
các đại biểu trong một hành vụ ǵ đó
của Đảng tại Nữu Ước. Đáng chú ư
ở giữa là Jones, Aaronson và Rutherford. Không thể
nhận nhầm họ được, vả lại tên
họ được ghi chú dưới h́nh.
Điều quan hệ là
trong cả hai phiên ṭa ba người đă xưng hồi
đó họ ở đất Âu Á. Họ đă bay từ
một phi trường mật tại Gia Nă Đại
tới một nơi hẹn đâu đó tại Tây Bá
Lợi Á, và đă họp cùng nhân viên thuộc Tổng
Tham Mưu Âu Á, để phản nước và khai
những điều bí mật quân sự quan trọng. Ngày
đó in rơ trong kư ức Winston v́ ngẫu nhiên hôm ấy là
ngày trung hạ ; nhưng toàn thể câu chuyện thế nào
cũng được ghi trong vô số công văn. Chỉ
có một kết luận đúng lư là : những
bản thú tội láo toét.
Dĩ nhiên đấy không
phải là một sự phát giác mới lạ. Ngay hồi
đó Winston đă không nghĩ rằng những người
bị loại trong các cuộc thanh trừ thực sự
phạm những tội vu cho họ. Nhưng đây là
một bằng chứng cụ thể ; nó là một
mẩu quá khứ đă bị hủy bỏ, như
một khúc xương hóa thạch đă xuất hiện
trong một lớp không hợp dự tính, phá tan một
thuyết địa chất học. Nó đủ thổi
tan Đảng nếu có cách đăng nó cho hoàn cầu
biết, cho ư nghĩa của nó được phổ
biến.
Anh đă tiếp
tục làm việc. Thoạt nhận ra tấm h́nh và
hiểu ư nghĩa của nó, anh đă vội phủ
mẩu tài liệu với một tờ giấy khác. May
thay, khi anh trải nó ra, nó ngược chiều với máy
truyền h́nh.
Anh đặt tấm lót
tay để viết trên đầu gối và kéo lùi
ghế hết sức xa máy truyền h́nh. Giữ cho
mặt thản nhiên không khó, và ngay hơi thở cũng có
thể kiềm chế được, nếu cố
gắng : nhưng không thể chế ngự được
tiếng đập của con tim, và máy truyền h́nh đủ
nhạy để ghi tiếng này. Anh để trôi mười
phút theo ước tính của anh, suốt mười phút
đó anh bứt rứt lo sợ một sự bất
trắc -- chẳng hạn, một luồng gió bỗng
thổi trên bàn giấy của anh -- có thể phản anh.
Rồi, để khéo không cho mảnh tài liệu lộ rơ,
anh ném nó vào lỗ kư ức cùng với vài tờ giấy
nháp khác. Nội một phút nữa, có lẽ, nó sẽ tan
thành tro.
Đấy là mười
-- mười một năm về trước. Ngày nay có
lẽ anh đă giữ tấm h́nh ấy. Lạ là đối
với anh sự đă cầm nó trong tay thay đổi
mọi sự, dù tấm h́nh cũng như sự kiện nó
ghi lại chỉ c̣n là kỷ niệm. Anh tự hỏi không
hiểu sự nắm giữ quá khứ của Đảng
có bớt mạnh đi v́ một mảnh bằng chứng
không c̣n nữa đă có lần hiện hữu không ?
Nhưng ngày nay, ví cho
tấm h́nh có cách nào từ tro tái sinh, nó cũng không
thể là một bằng chứng được. Ngay
hồi anh khám phá ra nó, Đại Dương không c̣n
đánh nhau với Âu Á, và ba người chết phải
phản quốc với điệp viên Đông Á mới
đúng. Từ hồi đó có nhiều thay đổi khác
-- hai, ba, bao lần anh không nhớ rơ. Rất có thể
những bản thú tội đă được viết
đi viết lại cho tới khi những sự kiện
hay ngày tháng nguyên thủy không c̣n mảy may ư nghĩa. Không
những quá khứ thay đổi, nó c̣n biến đổi
không ngừng. Điều làm anh sầu năo nhất cùng cho
anh cảm giác sống trong ác mộng là sự anh không
hiểu tại sao sự đại bịp bợm
kia dược thực hiện. Những lợi ích tức
th́ của sự xuyên tạc hiển nhiên rồi, nhưng
động cơ cuối cùng của nó thật bí mật.
Anh nhấc bút lên trở lại và viết :
Tôi hiểu NHƯ SAO :
Tôi không hiểu TẠI SAO.
Anh
tự hỏi, như
bao lần tự hỏi trước, không hiểu anh có khùng
không. Có thể người khùng chỉ là một người
thiểu số đơn độc. Có thời tin rằng
trái đất xoay quanh mặt trời là dấu hiệu
của bệnh điên ; ngày nay triệu chứng điên là
tin rằng quá khứ không thể biến chất
được. Có thể một ḿnh anh tin vậy và
nếu anh có một ḿnh, anh là một người khùng. Nhưng
ư nghĩ ḿnh điên không làm anh xúc động nhiều :
điều khủng khiếp là sự có thể anh lầm.
Anh
nhấc cuốn sách
sử dành cho trẻ em lên và nh́n ảnh Bác in trên đầu
sách. Đôi mắt thôi miên nh́n cḥng chọc vào mắt
anh. Đôi mắt như thể có một sức mạnh
lớn lao đè bẹp bạn -- một uy lực nhập
vào sọ bạn, đập vào óc bạn, làm bạn
khiếp sợ từ bỏ những điều bạn
tin, gần như thuyết phục bạn chối nhận
những bằng chứng hiển nhiên của giác quan
bạn. Tận cùng Đảng sẽ tuyên bố rằng
hai cộng hai là năm, và bạn phải tin như vậy.
Sớm muộn ǵ chúng cũng sẽ xướng ngôn điều
đó : luận lư của cương vị chúng đ̣i
hỏi như vậy. Không riêng ǵ hiệu lực của
kinh nghiệm mà cả sự hiện hữu của
thực tế bị triết lư của chúng phủ
nhận. Tà thuyết vượt các tà thuyết là lương
tri. Và điều ghê rợn không phải là sự chúng
giết bạn v́ bạn nghĩ khác, mà là có thể chúng
có lư. Bởi, dù sao chăng nữa, làm sao biết
được rằng hai cộng hai là bốn ?
Rằng sức trọng lực hữu hiệu ? Hay
rằng quá khứ không thể biến đổi
được ? Nếu cả quá khứ và thế
giới bên ngoài chỉ có trong trí tuệ thôi, và nếu
trí tuệ có thể kiểm soát được -- thế
th́ sao ?
Nhưng không ! Ḷng
can đảm của anh bỗng dưng tự nhiên cứng
lại. Gương mặt của O'Brien, tuy không được
gợi bởi một liên tưởng nào, thoáng qua mắt
anh. Anh biết chắc chắn hơn trước O'Brien
đứng về phe anh. Anh đang viết nhật kư v́
O'Brien -- cho O'Brien : nó tựa một lá thư vô tận
không bao giờ ai đọc được, nhưng đề
gửi một cá nhân và có màu sắc nhờ sự
kiện đó.
Đảng bảo
phải bác bỏ bằng chứng của tai mắt. Đó
là giới luật sau cùng, chủ yếu nhất của chúng.
Tim anh lịm đi khi nghĩ tới quyền lực to tát
triển khai chống anh, tới sự bất cứ nhà trí
thức nào của Đảng cũng có thể tranh
luận thắng anh dễ dàng, tới những luận
chứng tinh tế mà anh không hiểu nổi mà cũng không
đáp lại nổi. Thế nhưng anh có lư ! Chúng
sai và anh phải. Sự hiển nhiên, sự ngây ngô và
sự thật phải được bảo vệ. Lẽ
đương nhiên đúng, phải bám vào đó !
Thế giới vững chắc có thật, luật lệ
của nó không thay đổi. Đá cứng, nước
ẩm, vật không chỗ dựa rơi về phía trung tâm
trái đất. Với cảm tưởng anh đang nói
chuyện với O'Brien, cũng như đang đặt ra
một tiền đề cốt yếu, Winston viết :
Tự do là tự do
nói rằng hai cộng hai là bốn. Nếu điều này
được thừa nhận, mọi điều khác theo
sau.