Độc bạch với kẻ quá cố
(Paris, 1993)
Cậu lâm bệnh rồi mất đi, con có một điều ân hận là đă v́ lần lữa hoài bỏ lỡ dịp vặn hỏi Cậu và ghi lại vào máy những kư ức về cuộc đời thăng trầm của Cậu. T́nh cha con tuy thắm thiết, con cái thường biết rất ít về cha mẹ ḿnh , bởi khi bắt đầu khôn lớn, cả một chuỗi dài ba bốn chục năm tuổi của cha mẹ đă bị vùi vào một dĩ văng mờ ảo bí mật. Thành thử trừ phi cha mẹ là những nhân vật lừng danh lúc sinh thời được sách báo lưu lại chứng tích, muốn t́m hiểu cha mẹ để tự t́m, người con chỉ c̣n nước dựa vào những kỷ niệm đoản nhược của ḿnh để suy đoán.
Nh́n lại quá khứ, có lè h́nh ảnh thân thuộc nhất con giữ về Cậu là bóng Cậu đạp xe đạp đưa đón chúng con đi học, có khi ba đứa một lúc, đứa ngồi sau xe, đứa ngồi trên thành xe và một đứa nữa trên tay lái. Con có cảm tưởng cái h́nh ảnh ấy gói ghém cuộc đời của Cậu và của chúng con, một cuộc đời ít nhiều nghèo túng nhưng đặt dưới sự bảo trợ của thần học vấn. Theo truyền thống gia đ́nh, Cậu đă dạy chúng con trọng cái học, phải lấy sự hiểu biết làm đầu, v́ có kiến thức mới biết cách và xứng đáng làm người : « Đại học chi đạo, tại minh minh đức… ». Học cốt để hành, hành cái đức được sáng tỏ nhờ cái học. Cho nên nếu cái học có thể mang theo danh lợi, đó không phải là mục tiêu ; có khi nhờ cái học ta có thể thoát được phận nghèo hèn, nhưng cũng có khi ta phải sẵn sàng v́ cái học mà tự trầm trong cảnh eo hẹp cùng cực.
Họ nhà ta rất nhiều cụ đồ gàn đă đặt chí khí và thanh tiết trên lợi lộc ; thêm vào các cụ lại ít óc thực tiễn chỉ biết vùi đầu vào kinh sử, kết quả các cụ thường kiết cú, không có cụ bà tháo vát th́ gia đ́nh nghèo rớt mùng tơi. Điển h́nh là trường hợp của ông nội, mới lănh áo măo chẳng được bao lâu đă vội cáo quan v́ muốn tránh xử oan dân vô tội, quay về nếp sống âm thầm của kẻ gơ đầu trẻ. Chuyện ông cáo quan không oai bằng chuyện cụ nghè Liên (em rể ông) bất bái toàn quyền, nhưng con thích nó hơn v́ nó vừa ly kỳ (có thể v́ đă được chú bác thêu dệt) như chuyện Bao Công xét án, vừa biểu lộ một tâm hồn nhân hậu. Theo như con nhớ kể lại th́ vừa mới được bổ làm tri huyện sau khi thi đậu, ông nội liền gặp phận sự phải xét về một vụ án bí ẩn : đương lúc nghỉ ngoài hiên, một bà già bị đá đập vỡ sọ ; người con trai ở với bà già tŕnh báo và đổ tội cho người láng giềng đă v́ một vụ tranh chấp về cây cỏ mọc ở ven hai nhà mà báo thù ném đá trúng đầu bà cụ. Thời xưa ít có phương tiện điều tra khoa học, ông nội lại hăy c̣n non nghề, không biết quyết đoán ra sao : theo như hướng vết thương th́ ḥn đá có thể được ném từ phía nhà hàng xóm, nhưng sự trầm trọng của nó phải do tác động của một ḥn đá bị đập hay nện gần nạn nhân, mà nghĩ như sau tức chấp nhận sự người con nói dối và bà cụ do chính người nhà giết, một hành động hết sức bất nhân theo quan niệm cổ. Khó nghĩ quá, ông nội đă ra ngủ tại ngôi đền làng để khấn thần ứng mộng ; và quả nhiên đêm đó thần về khuyên ông canh chừng chớ bắt oan người láng giềng vô tội v́ thủ phạm chính là người con trai, và thần vanh vách tả lại cho ông biết rành mạch người con bất hiếu vẫn tra khảo tiền mẹ ra sao, bầy mưu giết mẹ rồi đổ thừa cho hàng xóm như thế nào. Ngày hôm sau, bán tín bán nghi, vừa ghê tởm sự thật nếu điều ứng mộng là sự thật, vừa ớn thần linh, ông đă cố gắng làm một tờ tŕnh tương đối khách quan lên thượng cấp rồi vội xin cáo quan về dạy học, thà sống trong cảnh thanh bần hơn là tiếp tục làm quan rồi nhỡ ra hành động thất đức.
Sau này con được biết thuyết khác do anh Thụ và bác Khiêm kể lại bảo rằng cũng như ông nghè Liên chẳng cố ư bất phục quan Pháp, chỉ không đến chào toàn quyền v́ ngủ quên, ông nội bỏ lỡ cơ hội làm tri huyện v́ muốn nán lại quê nhà thăm mẹ. Hư thực ra sao con không thể biết, có thể người đời thương mến nhau th́ thích thêu dệt tâng bốc nhau, nhưng cũng có thể kẻ có chí khí hay bị tiểu nhân ganh ghét hạ cho được. Cái quan trọng là trí óc non trẻ của chúng con nhờ những chuyện hay lạ về bậc tiền bối đă được nung đúc với những tư tưởng cao đẹp.
Cậu ít nhắc tới tuổi thơ ấu của Cậu, nhưng các chú bác hay than trách tính thanh liêm quá lố hay gàn dở của ông đă khiến anh em Cậu hoàn toàn vô sản, không có phương tiện ăn học như người khi chẳng may lâm vào cảnh côi cút. Dầu đông con và lương bổng ít ỏi, ông không thèm nhờ đến của hồi môn của vợ, để mặc bà nội sống xa hoa riêng biệt và tiêu pha phung phí đến độ sạt nghiệp. Nghịch ngộ thay đời sống của anh em Cậu vào thời thịnh của bà, khi c̣n thơ dại hay nghỉ hè được ở trên Hà Nội với mẹ th́ mẹ cưng chiều như ông bà hoàng, muốn sao được đó, về quê ở với cha th́ phải theo khuôn phép theo nếp đạm bạc đơn sơ. Ông c̣n khước từ cả cơ nghiệp do cụ sinh ra bà muốn tặng thẳng cho ông v́ cụ giận con (các em bà nội) thương cháu (anh em Cậu) và mến đức tính của con rể. Điều này làm các chú bác đến giờ c̣n ấm ức, v́ nếu ông không có thái độ quá câu nệ, anh em Cậu đă không phải hứng chịu biết bao nhục nhằn cay đắng thuở thiếu thời sau khi ông mất đi lúc Cậu mới khoảng mười tuổi. Vậy nhưng riêng Cậu không bao giờ có một lời than thân trách phận, nhất là trách ông nội đă khinh của một cách tai hại.
Con không khỏi nghĩ rằng tại tính Cậu có một phần giống ông, nên Cậu thông cảm những mâu thuẫn giằng co tâm hồn ông trước những quyết định ít nhiều đối nghịch với bản tính và lư trí. Là một nho sĩ sống dưới thời Pháp thuộc, chắc chắn ông phải đau ḷng trước t́nh cảnh đất nước, nhưng hoặc v́ tính ông hiền lành nhút nhát hoặc v́ ông thiếu tin tưởng vào một cuộc đấu tranh kém vơ trang, ông đă không dám xông pha chống lại triều đ́nh nhà Nguyễn hay có một hành động tích cực chống Pháp. Cho nên ông đă chọn lối phản kháng tiêu cực của nhà xử sĩ với chủ ư thực hành trong đời sống cá nhân luân lư cố chấp của nhà nho lỗi thời mà ông phải bám vào để có một lư sống. Chữ lỗi thời con dùng đây không có ư xược mà là chữ chính ông chắc đă phải đau đớn tự gắn cho ḿnh. Chẳng thế mà mới đầu thế kỷ hai mươi một vị đồ nho như ông không những không hề dạy con cái học chữ hán, ngược lại c̣n khuyến khích con học quốc ngữ, pháp văn và ngay cả la-tinh (trường hợp hi hữu của bác ba). Tuy hiểu rằng nho học phải nhường bước cho tây học nếu muốn thắng đuổi thực dân, v́ về phần ḿnh đă chót ôm lấy nghiệp nho, ông chỉ c̣n biết sống trọn tinh thần nho giáo để giữ phẩm cách. Một người rất ghét dị đoan như ông – một đặc tính ông đă truyền cho Cậu – khó có ư nghĩ cầu thần báo mộng rồi v́ một giấc mơ mà từ đường quan hoạn, lư do chính nhưng không nói ra của sự cáo quan của ông đích là sự từ chối làm tay sai cho chế độ. Nhu cầu trong sạch của ông bắt ông phải chối bỏ mọi tiền của không thể do ông kiếm ra, dù đó là tiền của vợ hay nhà vợ, nhất là khi ai cũng thừa hiểu sự giàu có trong một xă hội kém mở mang chỉ có thể được dựng trên sự làm ăn phi pháp, gian lận hay bóc lột. Kể ra sự nghèo túng là giá phải trả cho ḷng thanh bạch không cao nếu nó không làm liên lụy đến một bầy trẻ vô tội như anh em Cậu thời đó.
Nghe kể lại sự phân ly của anh em Cậu (trừ ba người lớn đă thành gia thất) phải theo các gia đ́nh khác nhau đón về nuôi sau khi ông mất (lúc ấy bà đă sạt nghiệp lại mắc bệnh, không cáng đáng nổi chính bản thân và mấy người con c̣n thơ dại), và nghe tả cảnh hẩm hiu bị hắt hủi miệt thị của anh em Cậu suốt thanh thiếu thời, con tiếc không có tài văn chương để viết lên một tân David Cooperfield Việt Nam.
Tuy áp lực xă hội thời xưa ép chú bác phải đón cháu mồ côi về nuôi, mức sống eo hẹp, ngay trong nhiều gia đ́nh quan liêu, cùng tính nhỏ mọn sẵn có trong con người gia tăng với nó khiến địa vị của đứa trẻ được nuôi rất phức tạp. Như cụ huyện dù thương cháu vẫn nhắm mắt để vợ và các con riếc móc Cậu, mặc vợ bắt cháu ăn riêng cơm gạo đen thay v́ ăn chung cơm trắng với cả gia đ́nh. Thấy cháu có chí và mẫn tuệ hơn con ḿnh, cụ huyện ít nhất đă có can đảm bất kể sự ghen ghét chống đối của vợ con mà cấp tiền tối thiểu cho Cậu ăn học (tới khi Cậu tốt nghiệp tiểu học, tạm tự túc được) tại trường tỉnh lỵ cách nhà cả chục cây số. Dĩ nhiên, tuy nhỏ tuổi, Cậu đă phải cuốc bộ hàng tiếng mỗi khi đi đi về về từ nhà đến trường, trong khi mấy người em họ xấp xỉ tuổi ḿnh có xe đưa đón. Đang ở tuổi cần dinh dưỡng, Cậu phải chịu cảnh lúc nào bụng cũng đói meo, ở nhà v́ bà thím cay nghiệt, ở trọ th́ phải chọn quán nghèo, thỉnh thoảng ông chú thương t́nh phải dúi cho một chút quà. Ngày nghỉ th́ phải giúp việc vặt cho thím – việc không có ǵ, nhất là cụ lại đầy tôi tớ trong nhà nhưng cụ muốn cháu không có giờ rảnh để học hơn con cụ - và chịu sự mỉa mai của mọi anh em bà con trong làng kiểu như : « Học với hành ǵ cái thứ c̣ bơ c̣ bất ấy mà cũng vẽ cũng vời !». Con biết có những lúc quá tủi nhục Cậu đă toan tự tử : con tưởng tượng một chú bé nhà quê tóc ngắn tun hủn (v́ đầu thường bị cạo trọc cho đỡ tốn tiền cắt tóc), quần áo xốc xếch, gầy nhóp gầy nhom, khuôn mặt tiều tụy thóp lại làm nổi bật đôi mắt tinh anh (hiện rơ trên mọi bức h́nh chụp Cậu), lặng đứng bên bờ sông thanh vắng, đăm đăm ńn vào không trung một hồi rồi nhất quyết lấy một ḥn đá ôm vào ḿnh, từ từ bước vào gữa ḷng sông cho nước ngập người, khi bắt đầu ngạt thở bỗng thấy qua làn nước cả cuộc đời ngắn ngủi của ḿnh diễn lại, đặc biệt thấy người cha thân yêu nghiêm nghị nh́n ḿnh như lúc sinh thời nhưng với một vẻ buồn bă vô song, và sức sống bỗng vùng dậy trong chú khiến chú bỏ ḥn đá đi và dăy dụa cố vươn lên mặt nước rồi bơi trở lại bờ.
Nhờ có ư chí và ham học, Cậu đà thắng nghịch cảnh. Lên tới trung học Cậu hoàn toàn tự lực cánh sinh v́ từ nay có thể kiếm tiền (thêm vào món trợ cấp của một người trong họ theo lời bác Khiêm) bằng cách dạy tư vào những giờ nghỉ học. Sống tằn tiện, Cậu đă có thể không những nuôi được ḿnh mà c̣n giúp được vài em ăn học theo Cậu, và cũng v́ sự rộng răi và quí mến anh em đó sau này Cậu luôn luôn được các chú bác đặc biệt nể nang. Để trả ơn ông chú, Cậu đă tận tâm kèm luôn mấy người em họ hay cậy thế trước kia.
Thời gian học sinh sinh viên vất vả bần hàn tại Nam Định rồi Hà Nội có lẽ là thời đẹp nhất của Cậu v́ lúc đó Cậu bước vào đời với đầy ḷng tự tín và hăng say. Những năm hai mươi ba mươi ấy là lúc thanh niên Việt Nam đầy ảo ảnh với đầu óc sôi sục đón nhận các trào lưu tư tưởng chính trị cách mạng xă hội du nhập từ Âu phương. Trước sự thất bại của phong trào Cần Vương do các nho sĩ cầm đầu, hầu hết các trí thức mong t́m trong chính nền văn minh Tây phương liều thuốc giải phóng đất nước. Nếu không ai chối bỏ nhu cầu độc lập và duy tân xứ sở nhờ khoa học kỹ thuật, có sự chia rẽ trầm trọng với hậu quả bi đát hiện thấy về h́nh thức chính thể được đưa lên làm đối tượng cùng phương cách đấu tranh để đạt mục đích. Lạ là giữa lúc khủng hoảng ư thức hệ, thay v́ đặt vấn đề, học hỏi, suy xét trước khi quả đoán, trí thức Việt Nam thời bấy giờ cũng như hiện tại chỉ biết chấp nhận một cách mù quáng những tư tưởng sẵn có của thiên hạ, không buồn đem đối chiếu với t́nh h́nh dân sự đất nước. Y như phần lớn người Việt tự măn vói một kiến thức thụ động, không có trí ṭ ṃ, không biết hay không chịu khó suy ngẫm thêm để ứng cái học với cái hành và khiến cái học vừa cao hơn vừa hữu ích hơn. Có lẽ đó là do một tính tổ truyền đă được kết tụ sau cả ngàn năm đeo đuổi một lối văn học từ chương vô bổ, theo thói khinh chủ trọng khách, khiến hàng chục thế hệ sĩ phu am tường văn học sử Trung Hoa hơn văn hóa nước nhà, trọng hán hơn nôm, tóm lại do một tinh thần nô lệ hay tự ti (không được ư thức hay công nhận mà c̣n được che giấu dưới h́nh thức tự phụ của những khẳng định hồ đồ như « Việt Nam bốn ngàn năm văn hiến ») quá thấm nhuần trí năo. V́ số đông thuộc thành phần tiểu tư sản, lại tương đối hiếm hoi bởi nền giáo dục quần chúng chưa được quảng bá, họ quen sống cùng lư luận một cách tách rời trong tháp ngà. Cũng như các truyện Hán Nôm toàn lấy nhân vật trong sử sách Tàu, không đả động tới sinh hoạt của người dân trong nước, tiểu thuyết của nhóm Tự lực văn đoàn tuy được viết trong thời Pháp thuộc lại vắng bóng Tây Đầm và ít ám chỉ tới t́nh trạng đất nước bị thuộc địa. Ngồi kiểm điểm sách báo Việt Nam từ xưa tới nay, con nhận thấy nhan nhản là văn thơ tâm t́nh suông sáo gần tương tự nhau, ít tác phẩm độc đáo, bài vở tham khảo hay nghị luận sâu sắc chẳng mấy khi gặp, ngay sách giáo khoa thực hành cũng không nhiều, ấn phẩm tinh c̣n yếu tinh thần như vậy th́ dân trí c̣n kém và giới « trí thức » càng tha hồ lộng ngôn và, tệ hại hơn, lộng hành.
Cho nên con dám trách thế hệ Cậu, là thế hệ sống vào đúng bước ngoặt quyết định của lịch sử nước nhà, đă v́ thiếu suy xét hay ấu trĩ trong sự chọn lựa đường hướng mà vùi tổ quốc vào ngơ bí hiện tại : phe quốc gia phiến diện và thiếu tổ chức, phe cộng sản có cấu trúc nhưng độc đoán, mỗi phe một kiểu nhưng cả hai đều không thực tế v́ chẳng đếm xỉa ǵ đến thực trạng nhân trí và nhân lực Việt Nam. Cố nhiên con rất hiểu những lỗi lầm của hầu hết các bậc tiền bối do ḷng yêu nước quá lớn xui lên : vào những năm hai mươi ba mươi kia, thanh niên thiếu nữ ai nấy đều nóng ḷng hành động, chỉ mong chóng giành lại quyền tự chủ cho đất nước, c̣n tự chủ để làm ǵ, theo phương thức nào, th́ ít ai ra tâm nghiên cứu, ỷ trên sự phác họa lạc quan của một thiểu số không mấy uyên bác chính trực. Con biết Cậu thuộc nhóm người ngoại lệ muốn t́m hiểu nguyên nhân và hậu quả của các học thuyết chính trị lôi cuốn thế hệ Cậu. Tủ sách chính trị phong phú gồm không những các văn bản thuyết lư xă hội từ Saint-Simon đến Lénine qua toàn bộ tác phẩm của Karl Marx, mà cả những khảo luận đề cao tự do từ Montesquieu đến André Gide – từng giúp vài đứa chúng con có chính kiến rơ ràng ngay từ thuở trẻ - do Cậu bắt đầu sưu tầm hồi đó (căn cứ vào năm xuất bản sách) đủ chứng minh cho tính ham t́m hiểu của Cậu. Thoạt đầu Cậu đă bị quyến rũ bởi những phân tích sắc bén cùng những đề nghị hợp lẽ công b́nh của các nhà lư thuyết xă hội, cũng như các phương pháp hành động có tổ chức kỹ càng của họ. Có thể chính Cậu đă giới thiệu học thuyết cộng sản cho Đặng Xuân Khu, ông bạn nối khố cùng là bà con của Cậu về sau trở thành lư luận gia của Đảng rồi Chủ tịch nhà nước. Tuy sao, năm 1925 Cậu đă cùng ông bạn kia là một trong những người đứng lên tổ chức trong nước đảng Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội. Bởi đă là thành viên chủ chốt của đảng này rồi, khi gặp Nguyễn Thái Học tại trường Cao đẳng thương mại, Cậu đă không tham gia công việc của Quốc dân đảng, mặc dầu Cậu có cảm t́nh với « anh chàng có tính thâm trầm và thói bịt đầu nằm sấp khi ngủ (tướng bị chặt đầu ?) » kia.
Cậu rất ít nhắc tới thời hoạt động cách mạng của Cậu, có lẽ v́ bất đắc chí, thỉnh thoảng Cậu mới buột miệng thốt ra một vài chi tiết hay giai thoại, như sự Cậu và các đồng chí toàn đội tên giả để che mắt người ngoài, các đồng chí chỉ được gọi nhau dưới tên tục (một chữ nếu là đảng viên thường, hai chữ nếu là đảng viên có thành tích). Con chỉ được biết khoảng năm 1927 lên đại học mới được hai năm th́ Cậu bỗng phá ngang, trên nguyên tắc để được thảnh thơi kiếm tiền sinh sống, thật ra để dễ bề lặn vào bóng tối hoạt động. Trong hai năm trời lĩnh công tác đi khắp đây đó, từ Bắc vô Nam, Cậu đă nghiệm thấy sự cách biệt giữa lư thuyết và thực hành, chứng kiến óc thiển cận và độc đoán của phần lớn các đảng viên, nh́n rơ sự chất phác của người dân Việt dễ và thường bị gạt, đồng thời nhận ra manh tâm lũng đoạn thanh niên để chiếm ưu thế của lớp người cộng sản trong đó có ông bạn quư của Cậu. Thêm vào, v́ được giao nhiều trách nhiệm sát sinh như làm quan ṭa trong một số phiên ṭa mật của Đảng kết án tử h́nh một số « Việt gian » chưa chắc ǵ có trọng tội, Cậu đâm sợ thói khủng bố bạo động làm mất dần nhân tính và hay xô xát với với đồng đảng về vấn đề này, như một lần Cậu từ chối trách vụ gài ḿn một chuyến xe hỏa có thể tàn sát vô số kẻ vô tội trong đó có đàn bà con nít. Sự cuồng tín của đa số đảng viên, mánh lới và thủ đoạn vùa đê hèn vừ giảo quyệt của họ để hại những người không cùng chí hướng cũng như để hạ lẫn nhau, óc quả đoán và hẹp ḥi của họ, dần dần làm Cậu ghê tởm khuôn mẫu cộng sản và những kẻ muốn toa rập theo nó. Cho nên năm 1929 Cậu cực lực phản đối việc biến đảng Thanh niên thành đảng Cộng sản, và trước sự thể đă rồi Cậu từ bỏ đảng trở về với đời sống b́nh dị của thường dân.
Bây giờ Cậu mới lo lập gia đ́nh nhưng số Cậu không được hưởng hạnh phúc lâu dài bên người vợ xinh đẹp (thật sự chứ không phải nói cho có vẻ văn hoa, căn cứ trên những bức ảnh c̣n được giữ) mới cưới, v́ chỉ một năm sau mẹ già mắc bệnh mất đi sau khi sinh ra anh Hùng. Trong những cơn đau buồn chuyện nước chuyện nhà, Cậu đă nghĩ ǵ hay chỉ thấy tuyệt vọng v́ thất trí thất t́nh ? V́ c̣n bổn phận với con thơ lại có tính hăng hái bướng bỉnh, Cậu đă dẹp được sầu bi, nhưng nếu vết thương ḷng phai mờ dần, sự mất ảo tưởng chính trị để lại trong Cậu một vết hằn không nguôi, nhất là khi với thời gian những dự đoán của Cậu về đảng Cộng sản trúng sự t́nh. Ghét cộng sản và ngán sự hỗn độn bên phe quốc gia, Cậu đâm hết tin tưởng vào tác động của những đoàn thể chính trị hiện hữu trong việc đem lại phồn vinh cho đất nước. Không c̣n lư tưởng lại dễ đam mê nồng nhiệt, cũng bạt mạng như khi Cậu dấn thân hành việc đấu tranh bạo động, Cậu đă nhào vào việc ăn chơi đủ mùi, cả tứ đổ tường không chừa điều nào. Nhưng khác với anh em bạn bè, cũng như đương khi say đảng Cậu vẫn tránh được ḷng cuồng tín mu muội, ngay trong những phút đam mê si dại nhất Cậu vẫn giữ được một phần tự chủ nên không hề bị thói xấu làm trụy lạc : Cậu tha hồ hút thuốc phiện và uống rượu mà không hề nghiện ngập, tha hồ chơi gái và cờ bạc mà chẳng đến nỗi quên bổn phận gia đ́nh. Con biết Cậu rất tự hào chính đáng về ư chí của ḿnh, có thể ngưng hay từ bỏ ngay bất cứ thói quen nào khi cần thiết. Chỉ tiếc rằng ư chí đó không được dùng vào những việc cao xa hơn.
Chê Cậu vậy chứ con thừa hiểu một nam nhi hiếu động như Cậu, đầy nhiệt t́nh nhưng quá sáng suốt để phục tùng cá nhân hay chủ nghĩa, biết lượng tài sức ḿnh, với địa vị một tiểu công chức trong xă hội suy đồi của những năm ba mươi bốn mươi chỉ nương tựa được vào đồng lương để nuôi sống gia đ́nh, khó đủ nghị lực và phương tiện để theo khuôn mẫu của nhà học giả hay hiền triết. Thật ra, năm 1940 khi lấy Mợ, một cô gái nhà giàu con quan, Cậu có thể hết lo chuyện kiếm tiền mà để tâm vào việc học hỏi biên khảo như vài người bạn của Cậu, nhưng Cậu cũng giống ông nội không muốn mang tiếng là nhờ hay lợi dụng vợ, trong khi Cậu lấy Mợ không phải v́ tiền mà v́ đức hạnh của Mợ. Thành thử Cậu đă gần như tái diễn với Mợ chuyện của ông với bà nội, nghĩa là kệ Mợ quản lư của cải của riêng ḿnh ; ngay khi vào những năm cuối bốn mươi Cậu tiên đoán ruộng đất sẽ mất giá v́ t́nh h́nh bất an ninh và sự thắng lợi của cộng sản, Cậu chỉ khuyên Mợ bán hết trước có một lần, thấy Mợ có vẻ luyến tiếc sản nghiệp do ông cha để lại, Cậu chẳng buồn cố nài. Và lẽ dĩ nhiên, v́ của cải của Mợ toàn là bất động sản, về sau đó Mợ hóa ra bàn tay trắng, và cũng như anh em Cậu nhưng với nhiều may mắn hơn v́ chúng con không mồ côi, chúng con đă v́ tính khí khái của cha mà phải sống một tuổi trẻ tương đối nghèo túng.
Cái tính khí khái đó của Cậu, chúng con không bao giờ có ư nghĩ phê b́nh mà c̣n hănh diện về nó là khác. Bởi nó đă tạo cho Cậu một cá tính riêng biệt làm những người quanh Cậu dù ganh ghét cũng phải kính nể. Có nhiều giai thoại về thái độ khẳng khái tới chướng của Cậu bạn hữu Cậu đă kể lại cho chúng con một cách thích thú. Thường là chuyện Cậu bướng bỉnh với cấp trên và khinh khi ra mặt những kẻ quyền quư Cậu cho là hèn hạ không xứng đáng. Đặc biệt là hồi làm tại Hải Pḥng Cậu đă không do dự thẳng tay tát vào mặt người trưởng pḥng người Pháp v́ khi chỉ trích công việc của Cậu hắn ta đă thóa mạ lây toàn thể dân Việt, kết quả là Cậu đă bị thuyên chuyển ; khi ỏ Bắc Giang Cậu vẫn chứng nào tật ấy chẳng nể ǵ quan trên, nhưng lần này số đỏ Cậu gặp phải một viên toàn quyền biết trọng chí khí : nghe kể là khi bị viên này gọi lên phủ để hạch hỏi về những lá đơn khiếu nại của con buôn người Hoa tố cáo công chức Việt Nam cố gây phiền phức cho thương gia người Hoa để làm tiền họ, Cậu đă tỉnh khô đối đáp như sau : « Ông nghe đồn về những viên chức Việt Nam cố ư gây phiền phức cho thương gia người Hoa để làm tiền họ, tôi cũng được nghe đồn về sự cai trị hống hách của ông cùng sự làm giàu bất hợp pháp của thuộc hạ ông, nếu ông không tin chúng tôi trong chuyện người Hoa và cho rằng các lời đồn đại đúng cả th́ phải nghĩ sao về những lời đồn đại kia về ông ? Ông công nhận với tôi là những lời đồn đại vô chứng cớ nên bỏ ngoài tai chứ ? », và đương nhiên Cậu đă được viên toàn quyền đồng t́nh.
Nhờ Cậu thẳng thắn nên Cậu đă giữ được ḷng trong sạch. Trong một xă hội thối nát với nạn tham nhũng thịnh hành từ trên chí dưới, mặc dầu nhiều lần làm tại một cơ quan cho phép lộng tác, Cậu không biết ăn hối lộ hay đúng hơn không bao giờ bị đồng tiền lung lạc mà làm điều trái pháp hay trái luân lư. Tất nhiên Cậu không phải là người đá hay bậc thánh nhân nên trong sự làm việc Cậu cũng có phần thiên vị và bà con hay người nào khéo nài khích Cậu được Cậu nâng đỡ hơn người với điều kiện chuyện họ xin xỏ không bất hợp pháp. Và ngược lại nếu những người được Cậu mách giúp biết ơn và có quà cáp mang lại, Cậu đă nhận những món quà đó, những món quà mọn ít khi xứng với cái lợi họ đă kiếm được nhờ sự mách đường mách lối của Cậu. Bởi sự vong ân bội nghĩa là lẽ thường t́nh mà Cậu lại không bao giờ đ̣i hỏi ǵ trước, tuy cũng có phần Cậu ôm chuyện người vào thân v́ những lời hứa hậu đăi bùi tai của kẻ đến nhờ vả. Con c̣n nhớ có vợ chồng một người « bạn » Cậu, đă giàu sẵn nhưng vẫn c̣n tham, cứ viện t́nh bà con xa với Mợ đến nhà ta hàng tháng săn đón cầu cạnh Cậu giúp họ xin tiền bồi thường chiến tranh, hứa hẹn chia nửa, đến khi Cậu xin được cho họ cả chục triệu bặt tin luôn, sau khi nhân Cậu Mợ đi vắng đến dúi cho con (lúc đó có tám tuổi chưng hửng chẳng hiểu chuyện ǵ) vài trăm bạc chẳng bơ công theo đuổi đơn cho họ. C̣n có một món quà trả ơn khác không xứng với công Cậu được con đặc biệt nhớ măi : một buổi sáng tự nhiên con (cũng vào khoảng tám tuổi) và anh Vương được một ông « bạn » Cậu dẫn đi chơi phố, hỏi tụi con muốn ǵ ông ta mua cho ; không rơ sự thể lại sợ ṿi bậy sẽ bị quở mắng khi về nhà, anh em con đă đề nghị một món hàng không đắt tiền nhưng được chúng con vẫn háo hức thèm là sách truyện, mà chúng con cũng không dám đ̣i sách dày đẹp, chỉ trỏ hai cuốn thường thuộc tủ sách phổ thông có nhan đề được ghi trong óc con là Grands cœurs của Edmond de Amicis cho con và Le vicomte de Bragelonne của Alexandre Dumas cho an Vương, và đấy là lần đầu tiên chúng con được mua một quyển sách cho riêng ḿnh (những sách đọc trước là sách có sẵn ở nhà hay đi mượn), một sự kiện đánh dấu cuộc đời mọt sách của chúng con.
Chính Cậu đă đúc cho chúng con tâm hồn yêu sách báo. Tủ nhà ta lúc nào cũng đầy sách báo (Anh, Pháp, Việt) do Cậu thâu lượm, đủ loại đủ ngành, nhưng nhiều nhất là sách chính trị. Có lẽ Cậu là cựu đảng viên đảng Thanh niên độc nhất tán thành cuốn Retour de l’URSS của André Gide năm 1936 và hoan nghênh Kravchenko khi quyển J’ai choisi la liberté của ông được xuất bản năm 1947. V́ Cậu góp được nhiều tài liệu chống cộng vào một thời lư thuyết cộng sản bành trướng mạnh lại ưa dùng nó để bài bác cộng sản với người xung quanh, Cậu đă bị các cựu đồng chí ghép vào tội phản động phản tuyên truyền đáng bị thủ tiêu. May thay ông bạn nối khố không quên nghĩa cũ của Cậu đă đến nhà ta (lúc ấy ở quê) thông báo cho Cậu hay và khuyên Cậu nên bỏ làng dọn đi khu tề hay Hà Nội để lánh nạn. Cậu chẳng cần mất công khuyên răn, số lượng sách báo quanh nhà đủ sức quyến rũ chúng con ṭ ṃ học hỏi. Ngay Mợ chỉ đóng vai bà nội trợ gương mẫu cũng chịu ảnh hưởng ham sách của Cậu, và kết quả đáng quư là ngay khi kinh tế nhà ta suy sụp nhất, túng thiếu đến đâu Mợ cũng không bao giờ từ chối nếu chúng con hỏi tiền để mua sách. Nhờ Cậu chúng con đă sớm làm quen với các tác giả cổ điển danh tiếng Tây phương, và tuy chúng con theo học trường Pháp từ nhỏ, tức không có thầy dạy Việt ngữ, chúng con không v́ thế mà sao lăng văn học sử nước nhà.
Điều này đúng là đặc điểm của riêng nhà ta. Vào thế hệ con, những đứa trẻ được (hay bị) cha mẹ cho học trường Pháp từ sau mẫu giáo, không qua trường Việt bao giờ, coi như lớn lên mất gốc (nếu không mất gốc sẵn v́ cha mẹ đă thành Tây hay bồi Tây từ lâu), nói tiếng Việt đó nhưng ngôn ngữ Việt không đủ để lư luận và mù tịt về văn hóa Việt Nam (kiểu như phần đông con cái hiện tại của những người di tản khắp năm châu). V́ lẽ đó và bởi nhà ta thuộc một gia tộc cổ hủ, bà con cô bác nội ngoại luôn luôn ŕnh rập đường ăn tiếng nói của chúng con (và nhất là của tụi con gái chúng con) để chỉ trích quyết định cho con theo Tây của Cậu, mặc dầu một số sau đó bắt chước Cậu khi thấy chúng con không đến nỗi nào. Quá lắm chị em gái chúng con bị gán tội thiếu « nữ tính » tức không yểu điệu trong cử chỉ và quanh co trong lời nói. Ngoài ra chẳng đổ được những khác biệt khác của chúng con cho trường Pháp mà cho cá tính của từng đứa. Riêng sự hiểu biết về Việt Nam th́ chúng con chẳng kém ǵ học sinh trường Việt nhờ giáo dục gia đ́nh và sách báo Việt Nam nhan nhản trong nhà. Con hồi tưởng hồi mới học tiếng Pháp, chú Lạc khi đó ở chơi nhà ta nhử con và anh Vương đọc truyện thần thoại Hy (Lạp) La (Mă) bằng cách tối đến kể cho chúng con một vài giai thoại trong sách, cùng lúc ấy Cậu đưa cho chúng con quyển Nam Hải dị nhân, các nhân vật thần (Hy La) thánh (hóa Việt Nam) đâm lộn xà ngầu trong óc con, ngắm mây cho là h́nh thánh Gióng bỗng thấy hóa ra thần Vulcain. Khoảng chín mười tuổi anh Hùng kèm chúng con bắt chúng con cứ hai tuần phải đọc và tóm lược một tiểu thuyết Pháp, nhưng con thường gian đọc nhẩy (nhất là khi sách do anh Hùng chọn chán phè như Atala của Chateaubriand) v́ muốn có th́ giờ đọc trộm truyện giả sử Tàu do Mợ thường thuê mượn về, đọc được một số đến lượt Thuyết Đường đang mê theo dơi kỳ tích của Tiết Đinh Sơn th́ bị bắt quả tang phải ăn một trận đ̣n nên thân rồi từ đó (cho đến khi lên trung học đệ nhị cấp) bị cấm tuyệt không được đọc sách nhảm nhí.
Dĩ nhiên là anh Hùng tuân theo mệnh lệnh của Cậu khi cấm vậy. Con hiểu ư chính của Cậu là muốn chúng con tập trung vào bài vở nhà trường, sợ chúng con say mê truyện gay cấn mà đâm lười biếng cẩu thả. Nhưng nếu chỉ vậy tại sao cũng là sách ngoài chương tŕnh nhà trường, có khi không kém hấp dẫn như các tác phẩm của Dumas và Hugo, truyện Pháp được khuyến khích đọc trong khi truyện Tàu bị cấm đoán ? Con nghĩ Cậu đă đi xa hơn ông nội trong nỗi hận hờn văn hóa hủ lậu Hán Hoa bị Cậu coi như nguyên nhân của sự kém thế của Việt Nam. Bởi cực đoan Cậu không muốn chúng con đọc sách Tàu cũng như học tiếng Tàu. Riêng việc này con khá trách Cậu v́ Cậu đă hết sức cản trở việc học hỏi Hán ngữ của con khi óc con c̣n non dễ nhớ mặt chữ, khiến ngày nay con không đủ thông Hán văn để tham khảo như ư. Di cư vào Nam, t́nh cờ ở gần nhà bác Mai, được bác nhận làm thầy đồ cho con con theo học bác hơn một năm, đang ham th́ Cậu nổi cơn lôi đ́nh mắng nhiếc tại sao phí th́ giờ học cái ǵ đâu vô bổ vô thưởng, bỏ bê bài vở (nhất lớp không đủ, phải nhất đủ môn với điểm thật cao), rồi Cậu xé sách vở chữ Hán đi, cấm con học tiếp với bác Mai, con phải vâng lời nhưng ấm ức Cậu về chuyện đó mấy năm trời.
Đồng thời với sự chối bỏ gia tài Hán học, Cậu muốn các con phải hấp thụ mọi tinh anh của nền học vấn Tây phương, tức không những các môn khoa học như toán lư hóa mà cả văn học cổ điển của họ (được ư hệ Pháp thời đó tôn trọng là môn « nhân tính »). V́ tinh thần chống đối chọn cách đi ngược ông cha để cải tân nước nhà, Cậu đă vấp phải chính lỗi lầm của tổ tiên ta đă từ bỏ văn hóa bản xứ để theo văn minh Hán. Là nạn nhân của tinh thần đó, chúng con đă phải hao công học La Tinh với Hy Lạp ngữ để làm vừa ḷng Cậu. V́ vào thời con, lên tới trung học đệ nhị cấp, chương tŕnh cổ học và khoa học xung khắc nhau (theo cổ học th́ ít giờ khoa học), muốn theo học cả hai như Cậu muốn con đă phải thuyết bạn học là con bà hiệu trưởng để bà ấy sửa thời khóa biểu hầu mở lớp riêng (A’) cho con. Nếu sau này tiếng La Tinh c̣n có chỗ dùng cho chúng con, chữ Hy Lạp đúng chẳng có tích sự ǵ, có bao nhiêu chữ con đă trả thầy hết và tiếc ngẩn đă không được bỏ th́ giờ học nó cho chữ hán nôm hay một môn hữu ích hơn.
Nhưng cái sai của Cậu trong sự hướng dẫn các con không đáng kể so với ḷng tha thiết của Cậu đối với sự học hành của chúng con. Cậu không ngớt lo cho chúng con ăn học đến nơi đến chốn, muốn cho chúng con được theo học những trường hữu danh nhất, từ tiểu học cho tới cuối năm trung học bao giờ cũng sắp xếp, dù t́nh cảnh nhà ta lúc đó có nghèo túng thế nào chăng nữa, cho chúng con có thầy dạy tư kèm thêm, nhất là về hai môn toán lư là những môn được Cậu coi trọng v́ tượng trưng cho sự thắng thế của nền văn minh Âu Mỹ. Hồi ở Hà Nội nhà ta tương đối khá giả nhờ Mợ c̣n của cải, Cậu thuê thầy giáo tới nhà kèm không những cho con ḿnh mà cho luôn cả các cháu được Cậu luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ. V́ một trong những đặc tính đáng quư của Cậu là sự rộng lượng về tiền bạc đi đôi với một tinh thần gia đ́nh rất mănh liệt. Hễ Cậu có đủ phương tiện là Cậu không ngần ngại nhận nuôi các cháu nội ngoại, và khi ở với Cậu mấy người đó đều được Cậu chăm sóc như con ruột, với kết quả là mấy người đó cũng thường ăn đ̣n ăn vọt như chúng con khi hư hay biếng nhác. Con c̣n nhớ anh Đắc có học bạ xấu bị Cậu gọi ra trừng trị, anh ấy sợ đ̣n cứ chạy tứ tung, leo lên cả nóc nhà, chúng con nh́n theo phải ôm bụng cười ṛn. Thời ở Ḷ Xũ đông bà con đến ở trọ nhất, , Cậu thường đứng ra tổ chức những cuộc thi ngữ vựng Pháp, tụi nhỏ như con (7-10 tuổi) cũng được thi chung với lớp lớn tuổi như anh Hùng (14-17 tuổi) : Cậu ra từ ngữ Pháp-Việt nào phải đưa ngay ra từ ngữ Việt-Pháp tương đương ; ai tổng cộng nhiều câu trả lời nhanh và đúng nhất th́ người đó thắng. Náo nhiệt nhộn nhàng làm sao những buổi đố vui để học xưa ấy !
Tiếc cho tụi nhỏ em con không được hưởng nhiều sự dạy dỗ trực tiếp của Cậu, v́ theo lối Việt Nam đứa lớn dạy đứa bé, Cậu ủy thác dần trách nhiệm cho mấy đứa đầu đàn. Không kể lúc tụi nó bắt đầu lớn, nhà ta đă di cư vào Nam, t́nh cảnh chật vật, Cậu bận ḷng nhiều chuyện, ít có th́ giờ cho các con hơn. Nhưng Cậu không ngưng hỏi qua đến sách vở của mọi đứa và chăm chú theo dơi kết quả học của từng đứa. Lẽ dĩ nhiên, đứa có học bạ kém chẳng thích thú ǵ sự giám sát của Cậu v́ biết thế nào cũng sẽ bị đánh phạt. Con không biết sự thể tại các gia đ́nh khác ra sao, nhưng con có cảm tưởng nhà ta hơi lạm dụng roi đ̣n làm phương pháp răn dạy con cái. Ôi những trận đ̣n nhừ tử con đă hứng chịu nhiều mạnh hơn anh em v́ con mắc cái tính bướng bỉnh không bao giờ chịu hối lỗi hay xin tha. Nghĩ lại con chẳng hề giận Cậu về những trận đ̣n đó v́ nó đă uốn thêm cho con cái tính cương quyết mà thực ra con đă thừa kế của Cậu.
Tuy là gái, con cảm thấy gần Cậu hơn anh em con, có lẽ v́ con có nhiều tính giống Cậu, ít nhất về tính bướng trên và tính bộc trực nói thẳng. Cũng như Cậu, con có nhiều kẻ thù v́ không biết mầu mè giả dối và không dằn được ḿnh tránh những phản ứng bất lợi trước sự trái tai gai mắt. Nhưng Cậu hơn con nhiều ở cái Cậu thật dễ dăi, cởi mở và tận tụy đối với thân hữu xa gần khiến số người mến Cậu không nhỏ. Cậu giao du với đủ mọi giới không phân biệt chức vụ, sang hèn. Vào nhà tranh thô sơ hay biệt thự hào nhoáng Cậu vẫn tự nhiên như bao giờ, gần như không thấy cảnh xung quanh, chỉ biết đến người tiếp chuyện với ḿnh. Và nhân một chuyến đi Đồ Sơn Cậu đă cho con một bài học xử thế đích đáng : Trên đường về Cậu dẫn chúng con (ba đứa lớn) lại thăm một người bạn ở đồng quê ; ông bạn Cậu được báo trước đă cho làm cơm thật thịnh soạn để thết đăi Cậu, tới lúc vào bàn mở lồng bàn lên th́, eo ơi, hàng ngàn con ruồi từ ruộng đồng bay đến bâu đen bát đĩa thức ăn, quật đuổi vô ích, tụi con ớn lạnh mất hứng chẳng muốn ăn ǵ ; nhưng Cậu không ngần ngại vẫn và gắp thưởng thức ra chiều hể hả như không có ruồi, khiến chúng con phải nén gớm nhai vài miếng cho chủ nhà vui ḷng. V́ tính Cậu vô tâm dễ mến nên dù có lâm vào cảnh nghèo nhà ta lúc nào cũng đông khách. Cậu có nhiều bạn hữu thường lặn lội từ xa đến nhà ta cốt chuyện tṛ huyên thuyên với Cậu, nếu chẳng may Cậu đi vắng ngồi đợi Cậu cho bằng được, và trong khi chờ đợi kể chuyện vui về Cậu cho chúng con nghe. Chính nhờ số người quư Cậu nhiều hơn số kẻ thù mà hồi con xin du học, tuy bị một viên giám đốc tiểu nhân hận Cậu v́ một câu nói mếch ḷng nhất quyết trù lây con, con vẫn xuất ngoại được nhờ sự can thiệp sốt sắng của nhóm bạn Cậu.
Con c̣n rất thích cái tính phóng khoáng của Cậu, không câu nệ tiểu tiết, bất kể sự đời. Chính v́ cái tính ghét sự g̣ bó ấy mà Cậu quư trọng tự do cho Cậu cũng như cho mọi người. Và trái với Mợ rất chú trọng đến h́nh thức, Cậu cho phép chúng con được tự do phát biểu ư kiến trước mặt cha mẹ, tranh luận to tiếng (nhưng không quá to, và miễn là vẫn giữ tôn ti trật tự trong từ ngữ), ngay cả phản đối những quyết định hay ư kiến của cha mẹ (tuy không được lâu v́ theo quan niệm cổ hủ của gia đ́nh « cha mẹ bảo sống phải sống, bảo chết phải chết, bảo ăn c. phải ăn c. »). Không khí ồn ào tự do ngôn luận trong nhà ta hiếm có đến nỗi nhiều người được chứng kiến lấy làm lạ hay thích thú. V́ nó chúng con mắc tật ăn nói ngang ngược, nhưng nhờ nó chúng con tập được óc phục thiện và biết tôn trọng quan niệm của kẻ không cùng chung ư.
Tinh thần khoáng đạt của Cậu khiến Cậu ít nặng thành kiến, không úy kỵ ǵ, chuyện ǵ cũng dám nhắc tới với chúng con không hề giấu giếm, kể cả những điều không tốt cho Cậu. Trong sự giáo dục Cậu không bao giờ phân biệt nam nữ và thường đối lập với Mợ về sự dạy bảo tụi con gái chúng con. Cậu quyết liệt đả kích quan niệm con gái không cần học, phải lo lắng việc nội trợ để sớm lập gia đ́nh chăm sóc chồng con. Đối với Cậu, gái hay trai cũng như nhau, phải hết sức trau dồi kiến thức trước khi nghĩ đến chuyện vợ chồng, có khi sự học của con gái quan trọng hơn con trai v́ trách vụ dạy dỗ con cái thường được giao cho người mẹ, mẹ càng nhiều kiến thức th́ con cái càng khá. Con phải cám ơn cái tư tưởng mới lạ đối với đương thời này của Cậu v́ nhờ nó chị em con đă được Cậu cho ăn học như hệt con trai, mặc dầu gia cảnh chật vật – nhiều gia đ́nh đồng cảnh ngộ quen biết với nhà ta đă sẵn sàng hy sinh con gái, con gái đang học bắt phá ngang đi lấy chồng.
Trở về già, v́ trải qua nhiều chuyện đau đớn bất b́nh, Cậu đă bớt cứng, có phần từ bỏ một số nguyên tắc của Cậu, nhưng so với thiên hạ, dù tóc bạc hay lâm vào thế cùng, Cậu vẫn thừa chí khí ngang ngạnh.
Con người ai cũng có sở đoản, nhưng ở Cậu những sơ xuất thật dễ bỏ qua. Riêng con chỉ nhớ đến những sở trường của Cậu, đặc biệt tới cái công lớn nhất của Cậu đối với chúng con là đă truyền cho chúng con cái ḷng ham học, không chỉ chăm học để tiến thân mà học hỏi để giữ ḿnh và hiểu biết thế giới. Truyền thống nho giáo của nhà ta đă không hẹn mà trùng với niềm tin của các hiền triết Hy Lạp cho rằng mọi hành động xấu xa của con người do sự ngu xuẩn mà ra, sự hiểu biết, nhờ đánh dẹp trí u mê, tất giúp con người cải thiện, chẳng những chính ḿnh mà cả môi sinh. Đấy phải chăng là đạo lư cao siêu cần được chúng con truyền lại cho đám trẻ sau này ?